|
|
|
TRANG BÌA |
www.lebichson.org |
.. |
Nguyễn Khuê (1825-1896) TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
Ở thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, vào thế kỷ XIX,
có một gia đình cả năm cha con đều hay chữ. Người
cha là Nguyễn Khuê, sinh năm 1825, giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Nguyễn Khuê ba lần đỗ tú tài, lần đầu ở khoa Bính Ngọ 1846, lần
thứ ba tại khoa Giáp Tý 1864. Danh phận không cao
nhưng nổi tiếng hiền đức, ông mở trường, học trò theo học rất đông, trong nhà
ông có cả môn sinh tận Phú Yên, Quảng Ngãi khăn gói ra vào trọ học.
Tài thơ của Nguyễn Khuê thể hiện ở chỗ ứng đối nhanh, niêm
luật chặt chẽ, và cái quý nhất là trong sự chặt chẽ của niêm luật, thơ ông vẫn
tươi rói nhịp sống thuần phác của hồn quê Việt, không hề bị câu nệ bởi ngôn từ
mỹ miều sáo rỗng. Ông nhìn đời với cái nhìn yêu
thương, gắn bó, đôi khi hóm hỉnh. Những bài thơ của ông toát ra không
khí tự tại êm đềm của những làng quê dung dị, ở đó, người
dân lam lũ xem trọng tình nghĩa, cần cù cúi xuống ruộng vườn, không đòi hỏi
cao xa. Tâm lý dân quê mộc mạc và đằm thắm được ông vẽ lên một cách tinh tế: Sau trước chập chồng hoa lại nụ Trước sau rải rác trái cùng bông Chả nem tuy chẳng bằng khi có Nộm gỏi nào hay đỡ lúc không (Bài vịnh Cây đu đủ)
Nhiều khi ông mượn sự vật để đề cao cách sống giản dị, ít đua đòi ở dân quê,
và khái quát thành quan niệm trọng nghĩa khinh tài: Mặc ai tím tía lại the hàng Con mắt xiêu vì áo vá quàng Mới cũ rõ ràng in một mực Trước sau khắng khít lượt hai đàng Tình chàng sánh với khi đằm thắm Nghĩa thiếp nào quên lúc cũ càng Giúp đỡ anh hùng khi rách rưới Thân này nào bận kẻ giàu
sang. (Bài Áo vá quàng)
Tính hài hước để lại dấu ấn trong thơ ông khá rõ. Nhất
là trong những bài răn học trò. Tương truyền học trò ông
nhiều người nghịch ngợm, hay chọc gái, đến nỗi các cô bị ghẹo tới mắng vốn thầy.
Ông bèn răn: Trở
đi trở lại đã nhiều ngoai, Để vậy
rồi ra cứ vậy hoài Sao
khéo giở trò rình đỡ ngực Làm
cho mang tiếng đã đầy tai Gẫm
tuồng lấp miệng làm hư trẻ Quen
thói luồn tay lại xấu trai Nếu
chẳng lo chừa đừng có trách Phép
vua là một, tội trời hai.
Với những trò biếng học, ông chỉ rõ căn bệnh lười nhác: Vóc vạc
sầm sầm cả một bầy Ngồi
nghe giảng sách mặt như ngây Mơ
màng trước mắt kiều lưng ngựa Rổn rảng
bên tai lạc cổ cầy Cơm mấy
mo cau ăn cũng hết Chữ lưng
lá mít đựng không đầy Muốn
không mang tiếng thân vô dụng Gác
bút nghiên đi nắm lấy cày.
Hai bài thơ ấy vẽ nên phong thái một ông thầy vừa nghiêm vừa
lành, tuy thông cảm độ lượng với những trò nghịch ngợm của học trò nhưng yêu
cầu rất cao về phẩm hạnh và học lực.
Ông là người yêu nước nhiệt thành. Cuối đời Tự Đức,
khi nước nhà dần dần rơi vào tay thực dân Pháp, ông lo buồn mất ăn mất ngủ: Mối tơ
ai gỡ lúc nầy xong Một dải
trời Kẻ ứa
gan vàng trương mắt trắng Người
liều dạ sắt múa tay không Thương
bầy trung nghĩa theo tro bụi Hoài
của ông cha trút biển sông Ơn nước
nợ trai dành có thuở Biết
bao giờ đợi biết bao trông
Hai câu cuối là cả một nỗi ngậm ngùi của một người không
còn tuổi trẻ để dâng hiến cho đất nước. Tuổi trẻ của
ông đã trôi qua, nhưng các con ông đều được nuôi dạy bằng lúa gạo và linh khí
nước
Sau mấy năm kiên cường chống Pháp, nghĩa quân bị đánh bại.
Anh hùng Mai Xuân Thưởng ra pháp trường. Nghĩa quân lớp bị
giết, lớp bị tù đày, trong số những người thoát được đi lánh nạn, có các con
ông. Ông và Nguyễn Thúc Mân bị bắt lên phủ.
Quan tri phủ dụ dỗ: -
Nếu thầy gọi ba đứa con về đầu thú thì cả nhà sẽ được tha. Ông
hỏi lại: - Quan lớn biết chúng ở đâu thì cho tôi rõ để
tôi đi gọi? Quan
tri phủ thấy ông già cả, muốn đùa cợt, bèn bảo: -
Tôi nghe tiếng thầy hay thơ. Thầy thử vịnh cục cứt sắt, vịnh
hay tôi sẽ tha về. Biết
ý quan phủ xem thường mình, ông thủng thẳng đọc: Ủi lầm sợ nỗi heo trầy
mũi Cạp lỡ
e khi chó gãy răng.
Quan phủ giận tím mặt, vỗ án sai giải cha con ông xuống
tỉnh. Chuyện ông đối đáp với viên quan phủ trở thành giai
thoại truyền rộng trong dân. Nửa tháng sau, nhà cầm
quyền không đủ chứng lý kết tội, phải trả tự do cho ông và Nguyễn Thúc Mân.
Nhiều năm sau, khi Pháp và tay sai thôi tầm nã các chiến sĩ
Cần Vương, các con ông lần lượt trở về. Gia đình sum
họp ít lâu thì ông mất (1896), thọ 72 tuổi.
Cụ tú Nguyễn Khuê, xét ở ba góc độ: một người dân, một người cha, một người
thầy, góc độ nào cũng làm sáng thêm mỹ danh tam huyện bát hiền (*) mà người đương
thời xưng tụng.
Trần Thị Huyền Trang
(*) Nguyễn Khuê là một trong tám người được tôn xưng là tam huyện bát hiền - tám hiền sĩ của ba huyện. Ba huyện là: An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn. Tám hiền sĩ gồm có: Nguyễn Khuê, Lâm Duy Hiệp (người An Nhơn); Nguyễn Diêu, Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Thế Hiển, Trần Quang Trinh (người Tuy Phước); Võ Văn Hiệu, Ngô Tùng Nho (người Tây Sơn).
Chân thành cảm ơn Phutaionline đã gởi bài viết này đến trang nhà!
|
.. |