|
|
|
TRANG BÌA |
www.lebichson.org |
.. |
LỜI VÀNG Ý NGỌC ( Phần I )
Kính thưa chư vị Pháp lữ gần xa! Có một lần,
vô tình tôi được nghe những dòng Pháp này trong một bộ băng ghi âm Sư thúc Đồng
Văn để lại. Với tôi, những dòng Pháp ấy là một tài sản tinh thần vô giá. Xin được ghi lại những dòng Pháp ấy trên
trang viết này để được xẻ chia cùng chư vị. Tin rằng, chư vị sẽ đón nhận những
lời vàng ngọc ấy như một món quà tinh thần đầu Xuân !
Ấn Độ, mùa Đông 2002 Lê Bích Sơn
Con
người là tên gọi đích thực của nỗi đau khổ truyền miên, bất tận trên cõi đời
này. Hay nói khác hơn, con người đã mang lấy một hình tượng là đau khổ khi khởi
đầu thân phận của mình. Thế thì, có ai là người đã hạnh phúc thật sự để được
sống ở đời? Người khách đã tự hỏi lòng mình như thế, vào một buổi chiều cuối
năm. Không gian yên tĩnh lại càng yên tĩnh hơn, vì câu hỏi này vẫn bị bỏ ngõ,
vẫn không được trả lời, vẫn là niềm ray rức không nguôi bên lòng người khách.
Để rồi cho đến một hôm, sau tuần trà buổi sáng trong thư phòng, người khách mới
chợt nhớ lại câu chuyện Đức Phật trên một bờ sông nọ. Trong
lịch sử con người, có lẽ Đức Phật là người đầu tiên đã định nghĩa lại danh từ
“con người”với bao hàm ý nghĩa rất nhân bản. Trong nguyên ngữ “Buddha”, được
dịch là “Người Tỉnh Thức”, Người tỉnh thức thì không còn đau khổ nữa. Cho
nên, người khách từ đây hướng lòng về quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng như
là một điểm khởi đầu cho cuộc hành hương đời mình vào Đức Phật, mà trên đó một
ngôi Thiền thất nhỏ được dựng lên với vẻ uy nguy mà giản dị, thiêng liêng mà
hữu tình, để phụng thời tượng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, và cũng để chiêm
bái tượng Đức Quán Thế Âm - vị Bồ tát có đôi mắt nhìn xuống chúng sanh đau khổ.
Khi ấy chính là lúc từ trong chiều sâu vực thẳm đến cùng tận tâm hồn của người
khách chầm chậm vang lên từng đợt chững âm ba dài hải triều vọng lại, vỗ về lấy
cung điệu cổ xưa từ vô thuỷ. Cùng lúc đó, những tiếng sóng gào thét của khổ
đau cũng bùng lên dữ dội, chập chùng không dứt trên biển tâm thức chuyển động
càng bao la. Những lúc này, người khách có cảm giác thời gian như muốn ngừng
lại. Nhưng rồi, mùa Đông cũng phải lụi tàn đi, để nhường cho một mùa Xuân mới
khác xuất hiện trở lại trên địa cầu. Thật vậy, cũng cùng lúc ấy người khách lại
một lần nữa hiểu dần ra rằng đâu là nghĩa của câu hỏi mà Bồ tát Vô Tận Ý thỉnh
vấn Đức Thế Tôn về nhân duyên và danh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm trong phần
mở đầu “Phẩm Phổ Môn – Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”: “Nhĩ thời, Vô Tận Ý Bồ tát tức
tùng toà khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:
Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?”. Và đến đây
cuộc hành hương vẫn cứ tiếp tục, trong khi câu hỏi trên kia mỗi lúc càng thêm
xúc tích, thân tình như một công án Thiền phải cưu mang trong đời, nhất là
vào những lúc như lúc thư thản này, ngồi uống ngụm trà nhìn hoa cúc vàng nở đầu
năm. “Việc chùa cũng vừa xong, Về thắp hương thư phòng, Quanh đây làn khói toả, Con thỉnh Phật . . . uống Trà” HOA Hoa
chính là vị Bồ tát hoá thân làm đẹp mắt mọi người, để những ai chuộng sắc trần
vào Đạo. Vẻ đẹp của hoa không có vị tục tằn của xác thịt, vẻ đẹp của hoa
không có mùi quyến rũ của tội lỗi, vẻ đẹp của hoa là hiện thân của vô thực, sự
huyền diệu của ánh nắng kết tinh thành màu sắc. Hoa là Từ bi, một đời tặng hết
dịu dàng và an ủi cho chúng sanh. Hoa là Hỷ xả, sau khi đem giọt nước mắt của
chân mỹ đến để ra đi, không bận tâm đến kiếp sống vô thường. Hoa là Bồ tát dạy
con “tâm vô trụ”, mỗi giây phút của cuộc đời rất quý, đừng để những giây phút
ấy trôi qua trong đau khổ, trong địa ngục của giận hờn và lo toan. Mỗi giây
phút này là sự bừng nở của ngàn vạn đoá hoa. Khi con bên lề đường không một
người để mắt, hoặc rực rỡ trong những khu vườn cùng sự chăm sóc của con người,
hay lẻ loi đơn côi nơi đồng hoang vắng, hoa vẫn bình đẳng trải rộng từ bi,
không phân biệt đắng đo về lẽ thân tình của mình sẽ đến với ai và được tiếp
nhận hay không! Con hãy sống trong vô trụ, trải rộng từ bi đến mọi người,
không phân biệt tình cảm của người đối với con ra sao, không lượng thời gian
không gian, không cần được đền đáp, không cần được hiểu và thông cảm. Hãy để
đoá hoa Tâm được nở, đừng để “Ngã” của con làm khô cằn mảnh đất vốn đã được
gieo giống “Phật”, vì mọi sự phân định phải trái chính là “Bản ngã”! Con có
quyền tu thì kẻ khác cũng có quyền không tu, con không được tự cho rằng: mình
tu nên đúng hoàn toàn. Thêm vào đó, là người tu mà không chuyển nổi tâm kẻ
khác theo đường Đạo thì phải tự trách mình. Vả lại, nếu con thật sự hết lòng
cầu giải thoát, hãy tự giải thoát mình khỏi cảnh khổ hiện tại, đừng quy lỗi
cho kẻ khác về nỗi khổ của mình. Tu là tự giải thoát. Giải thoát là gì? Sự
bình an của con trước mọi điều thuận nghịch của hoàn cảnh mà con đang sống,
hay được tự giải thoát, bình an nơi sự thay đổi hoàn cảnh, phải nhìn thực tại
của tâm mình mà giải quyết, hãy nhìn xuống, hãy hạ tâm mình! Hoàn toàn được mọi
người khen tặng là điều không thể có, nhưng hoàn toàn bị chê bai cũng là điều
không thật. Nghĩ rằng mình bị mọi người chú ý để chê bai cũng chính là “Ngã” đấy. Muốn thấy ánh
sáng chân lý đưa con ra khỏi vô minh, phiền não, con phải học hạnh Từ Bi Hỷ Xả
của hoa. Hoa phải là tâm con. Chư Phật trong mười phương đều nói đến giải
thoát, hoá sanh nơi hoa sen trong ao báu, chẳng phải không nguyên do. Cho
nên, hoa mang tướng vô thường mà sống đời vĩnh cửu của Đại Từ; giây phút đi
qua trần thế, nên giọt nắng cõi trần soi vào mắt con, khai thị điều thiện mà
con chưa tự chứng. Như hoa có thể tàn mà vẻ đẹp và mùi hương không biến mất
khỏi tâm con, điều thiện có thể mang tướng đến và đi, mà trong tâm thức của
con, con không bao giờ quên điều thiện có thật, hiện hữu rõ ràng khi con đối
diện với khổ đau. ÂM
NHẠC Âm
nhạc là chuỗi tiếng động sắp xếp theo tâm tư của từng người, trong mỗi con
người, trong mỗi chúng sanh là một nguồn nhạc ý tuông tràn, những giận hờn,
những đau khổ, những niềm vui tuông ra từ đó. Cho nên, lắng nghe thế giới với
tất cả những âm thanh đa dạng là một nguồn vui bất tận, vì đó là âm nhạc. Những
câu chưởi rủa là nhạc của một tâm hồn dao động đến cực điểm, những bài hát là
âm nhạc của thi nhân, và tất cả là bài hát bất tận của Sinh-Trụ-Hoại-Diệt, là
âm thanh của sự sống, tức là hình tướng của Đạo. Tiếng
chân bước trên đường vắng, tiếng là khô rơi rụng, tiếng dế kêu, tiếng đàn và
cả những âm thanh mà con không nghe bằng nhĩ căn được, như tiếng mây trôi, tiếng
hạt nước mưa chạm nhau trên không, tiếng thì thầm của hoa cỏ, tiếng của người
xa con. . . là những âm thanh kỳ diệu của cuộc đời. Biết thưởng thức tất cả
những âm thanh của cuộc sống là sống trong âm nhạc. Con có hiểu âm thanh là
gì, thì mới thực sự cảm được âm nhạc của đời. Hãy nghe đi! Chỉ biết nghe những
âm thanh mà con thích thì chưa thưởng thức được cái kỳ diệu của âm thanh, nếu
con chỉ thích nghe những lời ngợi khen và rất ghét nghe những lời chê bai,
thì nhĩ căn chỉ làm việc một nửa, đó là khuyết tật, đó chính là sự bất toàn của
thân, đó chính là sinh bất túc. Tất cả mọi âm thanh đều là vui, tất cả mọi âm
thanh đều là Pháp, những lời nói dữ là thử thách sự kiên định của tâm, là pháp
rèn tâm, là pháp điều phục tâm xao động. Như thế, những lời nói dữ chính là
giả tướng của lời Phật thuyết, chính là Pháp. Những lời nói dữ tự bản tánh nó
không dữ mà con chấp rằng nó dữ, vì con còn vướng mắc vào âm thanh, nên con
không nhận thấy thật tánh của ngôn ngữ. Quán sát âm thanh đơn thuần là âm
thanh thì hiểu được Đạo. Mỗi
âm thanh đều có độ ngân của nó, vì thế âm thanh là âm nhạc. Những lời khen tự
nó không xấu, nhưng chấp vào thì nó trở thành độc dược. Khen hay chê đều
không thể biến con thành kẻ khác. Hãy nghĩ những người chỉ biết chê bai người
khác chính là Bồ tát hoá thân, chính nơi những vị ấy con hiểu được lời Phật dạy:
Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi rỗng không! Khi con điềm nhiên trước
những âm thanh ấy là con đã độ được tâm mình, độ được kẻ ấy, mà điều đó cũng
chính là kẻ ấy đã độ con. Đôi
khi, những âm thanh đi thẳng vào tim làm con khổ sở là vì con chỉ nghe một nửa,
chính điều ấy mới là thân tướng xấu, mới là sự nghèo nàn. Đây là thần chú trị
bệnh ấy: Hãy quán điều ấy trong tiếng trống, tiếng đàn, phổ trong một đoạn
khúc, cho đến khi con trân trọng âm thanh ấy, thì đó là “thấy tự tánh ngôn ngữ
là không”. HỘI
HOẠ Con
được mẹ hoạ tranh, quên được cái “Ta” của con thì vào được tranh mẹ hoạ. Tức
tâm mẹ truyền cho. Hội hoạ là tướng của “Mỹ” (cái Đẹp), quan sát “Mỹ” như thế
nào thì bức hoạ tả như thế ấy. Nếu con không quan sát “Mỹ” mà để “Mỹ” hoá hiện
thành hoạ, thì con sẽ thấy tất cả vũ trụ này là hiện thân của cái đẹp toàn diện.
Vì tất cả vũ trụ tuân theo quy luật hài hoà, cân đối tuyệt vời. Con
biết chăng, từng hạt bụi cũng có chỗ đứng của nó, cũng có số phận, cũng có bắt
đầu và chấm dứt. Nói khác đi, cũng không bắt đầu hiện diện và không có diệt
vong. Thế thì con vẽ gì đây? Con vẽ các sự vật thật có hay không thật có? Nếu
thật có, thời nhận định của mọi người về một vật đều giống nhau; nếu không thật
có, thời lẽ ra không một ai có thể nhận biết. Vậy khi con hoạ thế giới là con
hoạ tâm của con đấy! Mà tâm ấy thì huyển vô cùng. Thế
thì lấy gì để nhìn thế giới? Lấy “Tánh Không” mà nhìn. Mà “Tánh Không” chẳng
phải cần luyện tập mới có, đó là bản tánh của muôn vật. Một con ong không
nhìn thấy cái đẹp của bướm, bướm không nhìn thấy cái đẹp của hoa như con tưởng,
vì con mang nặng thành kiến của loài người, với bướm hoa chỉ là thức ăn. Và
chính con, con đâu nhìn thấy cái đẹp của côn trùng, con mang ảo tưởng về thân
người của mình, tận đáy lòng vẫn chưa chấp nhận sự thật là không có gì khác
nhau giữa con và một con kiến, con mèo, cây cỏ; chỉ có sự khác biệt về nghiệp
quả, mà nghiệp quả thì không thường hằng. Con không thích nghe tiếp, đó là
“Ngã”, mà “Ngã” là bất bình đẳng. Con có cái nhìn buộc tội mọi người đó là bất
bình đẳng. Con có ưa thích đó là bất bình đẳng. Thế thì, con làm sao thấy cái
đẹp thật được mà hoạ. Bất bình đẳng là căn bệnh tàn phá vũ trụ. Ta thương vi
sinh huỷ hoại những cơ thể lành mạnh đồng với một người nói Pháp, những vi
sinh vật đó không nghiến răng gặm nhấm sức khoẻ con người, đó là những chúng
sanh nghiệp căn quá nặng, hoá sanh vào loài ấy, phải sống trong môi trường ấy,
hoàn toàn vô tội về nơi ở của mình, chúng không có ý chọn nơi, nếu chúng hiểu
được cái khốn cùng của kiếp sống ấy, chúng sẽ tu. Và chính chư Phật cùng chư
đại Bồ Tát dùng viên âm độ chúng, gọi Phật và Bồ Tát là y vương vì thế, trị
lành bệnh muôn loài. Chí rận cũng thế, khi phát tâm tu, nghiệp dứt chúng
không còn bị đoạ trong kiếp ấy, nên hoá sanh vào một thân tướng khác, không
còn phải sống bằng máu. Điều ấy con phải hiểu, giải thích cho con rõ vì sao
có người phát tâm tu thì gặp hiểm nạn. Phát tâm là một việc rất cao quý, đó
là sức mạnh thu nhiếp thời gian, sức mạnh vượt qua sanh tử, thu bao nhiêu kiếp
vào làm một, sức mạnh của người lội ngược dòng, sức của người chiến đấu với
chính mình, sức mạnh của thiên nhiên. Đó là cái năng lực phi thường biến
chúng sanh thành Phật! Cho nên, vẽ là phương pháp hữu vi. Tả, chỉ, lột được
cái sự thật ấy, cái bản chất, cái hình dáng thật của mọi vật, thay vì uốn nắn
thêm giả tướng theo ý mình. Con
có thấy tình yêu khiến con người đẹp ra như người vẫn tả không? Đó là vì khi
thương yêu nhau thật sự, con người chỉ nghĩ đến làm những việc tốt đẹp cho
nhau, bỏ đi những vụn vặt. Tóm lại, đó là biến tướng của Từ-Bi-Hỷ-Xả qua cửa
ngõ ái dục. Điều đó cho con thấy cái đẹp không nằm ở kích thước. Trong cách
nhìn người khác, con thường chỉ nhìn bằng nhục nhãn, chỉ thấy người tiếp cận
với mình với một mặt phẳng, tâm trạng của họ lúc ấy, rồi sinh buồn-vui, lo-sợ…đó
là chất huyển. Hãy nghĩ, vô lượng kiếp về trước, hoặc vô lượng kiếp về sau,
người kia xử trí với con ra sao trong hoàn cảnh này; Và con, vô lượng kiếp về
trước hay vô lượng kiếp về sau thì con phản ứng như thế nào trước hoàn cảnh
trên. Mọi vật biết hiện vô chừng, tâm chúng sanh trôi nổi theo nghiệp duyên,
không thể nào quyết định thật tướng nơi cảnh ấy. Khi con nhìn một sự vật, chẳng
phải chỉ là mắt con nhìn thấy, mà là Thức, là Sở tri, là Kiến đã huân tập từ
hằng vô số kiếp nhìn sự vật ấy. Từ vô số kiếp đã tích tụ vô số kiến chấp, hoá
nên tất cả những phân biệt đây tốt kia xấu, màu đen màu trắng, giàu nghèo, thọ
yểu, khinh trọng. Bỏ tất cả những kiến chấp này đi ngược lại vô thuỷ về trước,
con sẽ thấy chỉ có ánh sáng vô cùng, không ngằn mé. Con người đã bỏ chiếc
bóng của mình! Thế nên, con người là nguồn ánh sáng rực rỡ mà không tự biết,
đi tìm ánh sáng bên ngoài để nhìn mình, để chồng chất thêm những màn đêm làm
mờ đi ánh quang minh của tự thân. Màu mà con vẫn gọi là đen chẳng phải là màu
đen, đó là một tập hợp ánh sáng màu ngũ sắc, màu cầu vồng, nổi bậc riêng sắc
đen trên các màu khác. Con đường mà con vẫn đi qua chẳng phải con đường, đó
là chiếc cầu vồng mà con vì chấp vào thân tứ đại, chỉ thấy đó là đất đá màu
đen. Và người xấu, con phải nhìn họ trong hiện kiếp, kiếp quá khứ là người bị
hà hiếp và vị lai bị nghiệp quả, thì tướng xấu ở đây là đâu? Quan sát như thế
mới nên vẽ, quan sát như thế mới nên quan sát. Thế
nào Quán Tự Tại? Là ở nơi không hai lập cái thấy. Thế nào là không hai? Không
có ta và vật, không đây và đó, không khoảng cách không chướng ngại, hoàn toàn
tự do nên không gì là không biết, không gì là không thấy, không đâu là không
đến được, và không biết tất cả những “không” trên, đó là “Tự tại”. Bố cục bức
tranh lấy tâm điểm ở hai phần ba (2/3) hoặc một phần ba (1/3) khổ giấy hay vải.
Màu sắc, chọn màu gần thiên nhiên hoặc màu mà con thấy bức thiết như một nhu
cầu, đừng dùng lý luận bẻ nén sự vật, đảo lộn màu sắc, rồi theo đó mà vẽ, như
thế là giả dối. Các bức hoạ Phật, Bồ Tát và Chư Thiên đừng vẽ bóng, chỉ dùng
màu nước pha nhạt hoặc vẽ nét. Ánh sáng ở tự thân chiếu ra, trong cõi ánh
sáng không cùng, màu sắc phản chiếu ánh sáng, ánh sáng phản chiếu ánh sáng,
không thể có bóng. Hội họa là phản chiếu ánh sáng của các sự vật, con người.
Hội hoạ là dùng màu sắc thuyết pháp, là đưa thế giới bên trên về gần. Con
hãy dùng hội hoạ mà cúng dường Chư Phật!
KHỔ ĐẾ Đau
khổ không phải là điều xa lạ đối với mọi người và với riêng con. Đau khổ đã
là bạn đồng hành từ lâu lắm, thế thì có gì phải ngỡ ngàng. Đau khổ đến từ người
này hay người khác, từ hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, điều đó có nghĩa gì
đâu. Vì lẽ đơn giản là nó phải đến, nên mang hình tướng để gây hại cho sự
bình tâm của con, đau khổ sẽ mang hình tướng ấy. Cho nên, đừng oán trách người
làm con khổ, vì họ chỉ là công cụ của một sức mạnh ở ngoài chính họ, đó là sự
đau khổ vẫn hiện hữu nơi thế gian. Đau khổ vò xé tâm cang tức một tướng của địa
ngục rồi. Thế thì, đau khổ chính là địa ngục. Đã ở trong địa ngục là tận
cùng, thì còn tự tử để đi đến cõi chết nào khác nữa. Vả lại, đau khổ là nghiệp
đeo đẳng, há phải do người nào mang đến mà có nơi trốn tránh khỏi mắt nhìn.
Chết là không chịu sự tác động của loài người và hoàn cảnh thế gian, nhưng
chưa thoát khỏi nghiệp báo. Đau khổ sẽ mang hình tướng khác để theo đuổi con,
và ở nơi không có thân để chịu quả báo, những cảnh khổ sẽ nhân lên hằng bao lần
để tâm thức phải động và đau đớn như một đau đớn cảm được trên thân thức, là
những cảnh của địa ngục. Cho nên, phải biết tự tử để thoát nỗi khổ đang gánh
chịu tức sẽ dẫn đến địa ngục cõi khác mà thôi. Khi chưa là Phật, thì chưa thể
nói được đã thoát khỏi địa ngục, khi chưa thể thoát khỏi địa ngục thì đừng
mong không còn đau khổ. Vậy thì, đau khổ sẽ theo con cho đến ngày giải thoát.
Cứ mặc nó đến, quan sát nó ở chân tướng chứ không ở giả tướng. Chân tướng của
đau khổ khi đến với con là nghiệp, giả tướng là người hay hoàn cảnh chẳng thuận
lòng con. Để hoá giải ác nghiệp chính là thiện nghiệp, hãy gây lấy thiện nghiệp
để thoát khỏi bể khổ trần gian. Và điều thiện bậc nhất là ngay trong lúc này
khi con đang khổ sở, hãy niệm Phật. Niệm Phật thì sẽ tỉnh táo để thấy được
chân tướng của đau khổ, đau khổ tự đến thì tự nó sẽ đi. Không phải vì con xua
đuổi mà đau khổ xa lánh con, bình tâm trước nghịch cảnh sẽ không cảm thấy đau
khổ sâu xa như chính mình đang chịu khổ. Quán rằng, khổ này không cũ nhưng
không mới, không tự tánh thì không tha tánh, không hoàn toàn của con. Vì nếu
không có ngoại vật, tha nhân thì con không khổ, nhưng không lìa con, thì con
cảm thấy nỗi khổ đau rõ ràng nơi con. Vậy, nó ở đâu? Không ở nơi con, không ở
nơi người, do đó đau khổ là duyên hiệp thành theo nghiệp mà đến. Nói nghiệp tức
là nói chính mình, đâu ai có thể trốn khỏi chính mình, cho nên đừng tự làm khổ
mình. Nghiệp đến cứ đến, nghiệp đi cứ đi, được như thế thì đó là “Tâm không
trụ”. Tâm không trụ thì an ổn, an ổn nơi oán hội, là thấy Niết Bàn tại thế. Để
có đủ lực đạt đến Niết Bàn, con phải niệm trong đau khổ và quán trong cảnh
nghịch. Tha lực và tự lực là sức mạnh mãnh liệt đến từ bên ngoài, phát ra từ
bên trong thì hiệp nhất sẽ phá tan xích xiềng của địa ngục khổ đau. Đó chính
là giải thoát. Đau khổ là nhân đưa đến giải thoát, nên đừng sợ nó, đừng ghét
nó, đừng là kẻ vong ân, hãy cảm ơn đau khổ; như thế những người mang đau khổ
đến cho con, chính thực là những vị Bồ Tát phát tâm hành nghịch độ, để cho
con được quả thiện tròn đầy. Đó là những Bồ Tát trải thân làm cầu đường cho
chúng sanh đi đến giải thoát. Và luôn nhớ, chư Bồ Tát không phải chỉ mang tướng
thiện để độ sanh, hãy cầu nguyện cho các vị ấy sớm đắc quả vị Phật mới trả được
ân. Phải tri ân những người mang đau khổ đến cho con, hành như thế mới là người
trí huệ, hành như thế mới là con Phật. Đau khổ hay nghiệp chướng là nhân Bồ Đề,
nên con không được khinh, không được hổ thẹn vì nó. Và chính vì Niết bàn có
nhân ban đầu là Phiền não, nên con không được sinh tâm mong cầu tha thiết, chẳng
trụ đau khổ, chẳng trụ Niết Bàn là chân thật Niết Bàn, là giải thoát. Con hãy
y theo để tìm thấy hạnh phúc ngay trong đời, ngay từ giây phút này. Hạnh phúc
tìm thấy nơi không có hạnh phúc, nơi không cho phép hạnh phúc tồn tại. Nơi
cõi trần này là hạnh phúc vĩnh cửu, vì đã kinh qua đau khổ. Con
hãy tự cứu mình! TẠI
SAO TU? Tại
sao phải đặt vấn đề tu khi điều đó chưa là cấp thiết đối với nhiều người? Có
người vào Đạo một cách tự nhiên, dễ dàng, nhờ căn lành đã trồng từ nhiều kiếp
trước; có người trong đau khổ cùng cực, chợt hiểu chỉ có tu mới thoát khổ,
còn đại đa số không thấy cuộc đời đáng buồn đến độ phải bỏ nó, hay cuộc đời của
mình suy đến cùng cũng chẳng có gì đáng phàn nàn, thì tu để làm gì. Thật
ra, ý niệm tu làm nhiều người sợ hãi, tu là từ bỏ những gì mình đang yêu
thích thì quả là khó khăn, và không hứa hẹn điều gì tươi sáng cả. Thiện ác là
hai mặt của cuộc đời, nhưng thiện ác cũng là hai mặt của mỗi con người. Và
không thể dễ dàng để phân định ranh giới giữa hai khuông mặt này, không thể dễ
dàng quyết định trắng đen. Mỗi người sanh ra đời đều mang sẵn liều lượng thiện
ác trong mình, thiện là Phật mà ác là chúng sanh. Nhưng thế nào là thiện, và
vì sao gọi là ác? Bất cứ một hành động hay tư duy nào không lấy “Tôi” làm nguyên
nhân và đích đến thì đó là thiện, ngược lại là ác. Nhưng nếu không có “Tôi”
thì ai hiện hữu, ai làm việc thiện ấy? Đó là Phật của con hay Phật trong con.
Có người sẽ gọi đó là “Thượng đế” hàm nghĩa chân lý, điều toàn
thiện, nhưng Thượng đế là ban bố, dù không nhận lại nhưng vẫn mang tướng thi
ân. Còn Phật thì ngay cả ý thức thi ân cũng không có, Phật chính là sự tự tại
của Thiện. Như thế thì ngoài bản ngã của con ra mà con nghĩ đích thực là
mình, còn có một bản ngã khác là một đời sống tự do không lìa con, nhưng
không lệ thuộc, sẵn sàng hiện diện khi con không tìm cách nhấn mạnh sự có mặt
của mình như một thực thể chân lý. Bản ngã ấy là chân tánh của con, chân tánh
ấy là Phật tánh. Không tìm thấy bản ngã thật ấy con phải đau khổ, phải bất
an, con không bao giờ bằng lòng với cái mình đang có, hay bằng lòng với thế
giới quanh con. Vì không thể nào sống yên ổn hoà bình với cái ác được, dù đó
là cái ác của chính mình. Tu là tự hoàn thiện mình, tu không
có nghĩa là mất cả ánh nắng của cuộc đời, chôn vùi một cái gì thân thiết của
con, mà con hãy sống hoàn toàn, tràn đầy như đập vỡ vỏ cứng của một quả ngon
để thưởng thức. Không sợ chữ “Tu” thì con sẽ hiểu tại sao phải tu. Ai cũng có
một lần cảm thấy sự bất lực vô cùng của mình khi đối diện với cuộc đời, dù là
ai chăng nữa, họ có thể thành công trong những mặt nào đó, và lấy hào quang của
thành công này che lấp những buồn tủi của thất bại khác, nhưng sự đền bù này
cũng chính là sự xác định mặt khiếm khuyết kia. Cái nhân của đau khổ vẫn còn
đó dù được che dấu dưới lớp tro than của quên lãng, hay nhung gấm của hạnh
phúc hiện tiền. Người đời vẫn thường chấp nhận và bằng lòng với cái tương đối
ấy, nên gút lại là hạnh phúc đối với họ giản dị quá, là cho qua đi những đau
khổ và thụ hưởng những cái mà họ đang có. Đó là làm quen với ác và đi đến kết
luận có thể dung hoà Thiện – ác. Vì ác là gì, nếu không là đau khổ? Nhưng còn
một lối thoát, còn một con đường dẫn con đến nơi ý niệm về ác cũng không có,
huống nữa là sự hình thành của tội ác. Bóng dáng đau khổ vắng bặt nơi đây, chỉ
thuần một màu an lạc. Tại sao con không dấn thân vào con đường hạnh phúc chu
toàn ấy! Con đường ấy là đường tu. Cho nên, tu là đến với những gì vui hơn
cái mà con đang hưởng, những kỷ luật gặp trên đường tu là điều tất yếu để giải
quyết chất ác, chính là sự hoại diệt của điều ác để hiển bày điều thiện. Sự
hoại diệt này là nhân, là quả mà điều ác chất chứa trong nó nên phải lãnh chịu.
Khi ác đã không còn thì không có sống chết, không có đau khổ, không có ranh
giới, không còn phải khép mình vào căn phòng Thiện để đối kháng với ác. Thiện
là con, con là thiện, thì điều gì con làm lại không là điều thiện, nơi đâu
trong con lại không là không gian của thiện, thì còn phải khép mình vào một lề
lối nhất định nào để hành thiện! Đó là giải thoát khỏi cái ác, khỏi đau khổ,
khỏi cả ý niệm về đau khổ, khỏi cả ý niệm về sự giải thoát ấy. Đó chính là giải
thoát! Vì thế, tu không phải là từ bỏ hạnh
phúc cuộc đời để đến với Đạo, tu là đi từ hạnh phúc mong manh đến hạnh phúc
vĩnh cửu. Tu là vẫn hít thở không khí ấy, vẫn nhìn thấy vầng Dương cũ rực nắng
mỗi ban mai, vẫn bầu trời đầy sao của ngày xưa tràn lên tâm tư mỗi khi đêm đến,
vẫn những người con đã gặp bao lần, vẫn hoàn cảnh mà cuộc đời đã đặt con
trong đó. Nhưng con ơi! Nhận thức của con chẳng còn như xưa nữa, mặt trời thế
gian chỉ là hình ảnh thô thiển của mặt trời đã sáng trong con, những người
con gặp gỡ là những chiếc bóng của chính họ, mờ nhạt và yếu ớt trước cuộc đời,
trước sanh tử của mình. Và cuộc đời cùng những hoàn cảnh thuận-nghịch, buồn-vui
xưa, nay chẳng còn chuyên chở được tình cảm của con, con đã thoát con nhỏ bé
ngày xưa. Ngày xưa? Phải. Vì những căn tánh, nhãn quan cũ sau ý thức muốn tu
và sau khi con dấn bước trở nên xa xôi và lạ lẫm, cứ lùi mãi vào vô tận mang
tính vô thực của một huyền thoại nhưng thiếu chất hư. Con bây giờ mới thật sự
sống. Hãy san bằng chướng ngại ngăn cách con với thường hằng, hãy làm người lữ
khách mà mỗi bước chân đến cõi không thời gian nở đoá sen vô ưu, hãy là con
mãnh sư uy dũng giữa đám người đành chịu khuất phục trước bao nỗi khổ sầu. Tu
là một quyết định sáng suốt nhất trong đời người, không chỉ là sự sáng suốt của
tuổi nào, mười, hai mươi, bảy mươi, tám mươi hay hơn… mà đấy là sự sáng suốt
của vô lượng tuổi, vượt ngoài giới hạn của tuổi tác, là tiếng nói của Phật
trong con, vang gọi con vào cuộc đại hành hương. Hãy đi, nhớ rằng hãy làm
gương thắp đuốc soi đường, mỗi nỗ lực sẽ có vạn nghìn mắt Phật thương nhìn, mỗi
vấp ngã sẽ có vạn nghìn cánh tay Bồ Tát nâng lên. Con đi bằng sức mình nhưng
không bao giờ lẻ loi, không bao giờ cô độc hoàn toàn. Hãy tấn tu!
|
.. |
(This homepage is best viewed with a screen size of 1024 x 768 pixels Trang nhà hiển thị tốt nhất với chế độ màn hình 1024 x 768 pixels) |
www.lebichson.org Thành lập ngày 10 tháng 9 năm 2003 |