Phật giáo Nam tông ở Cố
đô Huế
Tỳ kheo THIỆN MINH
NỘI
DUNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Niên đại và người khai
sáng 2. Nguyên nhân du nhập 3. Những điểm thuận lợi và khó khăn
4. Ðôi nét về cuộc đời người khai
sáng và các vị có công truyền bá:
a) Tóm tắt tiểu sử đức Giới
Nghiêm, người khai sang Phật giáo Nam tông tại Huế b) Tóm
tắt tiểu sử Hoà thượng Hộ Nhẫn c) Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Viên
Minh d) Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Ðịnh Lực e) Tóm tắt tiểu sử
Thượng tọa Giới Ðức f) Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Hộ Tịnh g)
Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Pháp Tông h) Tóm tắt tiểu sử Thượng
tọa Tuệ Tâm e) Tóm tắt tiểu sử Ðại đức Giới Hỷ
5. Những thiện nam và tín nữ hộ trì Tam Bảo đầu tiên
II. NHỮNG NGÔI CHÙA Ở CỐ ÐÔ HUẾ
Tăng Quang Thiền Lâm Huyền
Không Huyền Không Sơn Thượng Ðịnh Quang Pháp
Luân
III. ÐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG
Nghi thức Lễ hội Xã hội Văn
hóa
Nghệ thuật kiến trúc:
a. Chùa Tăng Quang b. Chùa
Thiền Lâm c. Chùa Huyền Không d. Chùa Huyền Không sơn
thượng
IV.KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
I. Những Giai Thoại
1. Chuyện trong nhà ngoài phố 2. Chuyện nhà sư và chiếc bình
bát 3. Chuyện ma
II. Tài liệu tham khảo |
-ooOoo-
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Niên đại
và người khai sáng.
Có thể nói là Phật giáo Nam Tông ở Huế bắt đầu bằng việc thành lập chùa Tăng Quang vào năm 1954 do Hoà thượng Hộ Tông và Hoà thượng
Giới Nghiêm (trực tiếp là Hoà thượng Giới Nghiêm) chủ trương. Lúc đầu, chùa chỉ là một ngôi nhà lá đơn sơ để Ngài Giới Nghiêm dừng chân tu
thiền và dạy đạo cho Phật tử hữu
duyên. Nhờ oai lực của Tam Bảo và đức
độ của Ngài nên Phật tử phát tâm mua đất để xây chùa cho đức Giới Nghiêm và chư Tăng tu hành.
Mãi đến năm 1959, nhờ đức tin trong sạch
của Phật tử, chùa Tăng Quang tiến
hành trùng tu chánh điện và xây
dựng bảo tháp tôn trí Xá lợi Ðức Phật Thích Ca. Ngày lễ khánh thành và kết
giới Sìmà có sự chứng minh của Hoà thượng Hộ Tông, Hoà thượng Bửu Chơn và
63 vị Tỳ kheo Phật giáo Nguyên Thủy từ Sài gòn đến dự lễ.
Năm 1963, Xá lợi Ðức Phật Thích Ca
chính thức được cung thỉnh về tôn thờ tại bảo
tháp của chùa Tăng Quang cho đến
ngày nay.
2. Nguyên nhân du nhập
Hoà thượng Giới Nghiêm xuất gia Sa di năm
1930 tại một ngôi chùa ở làng Bãng Lãng, huyện Hương Trà, thành phố
Huế theo truyền thống Phật giáo Bắc tông. Tại cố đô Huế, một ngày nọ đức Giới Nghiêm được trông thấy hình bóng các Sa môn của
Phật giáo Nguyên Thủy Lào được Hoàng
hậu Từ Cung thỉnh vào Thành Nội tụng kinh đầu
năm cầu quốc thái dân an. Hình ảnh những vị tu sĩ Phật giáo Lào là
một nhân tố vô cùng tươi đẹp cho đức Giới
Nghiêm sau này trở thành một tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam.
Sau lần gặp gỡ đó, Ngài có ước nguyện
được theo giáo phái giống như những vị tu sĩ
Lào có Tam y và Quả bát, mà ở Việt Nam lúc bấy giờ vẫn chưa có. Bởi
lẽ trước nay Ngài tu theo những gì thầy tổ dạy, một giáo lý có truyền
thống rất lâu đời, chịu ảnh hưởng của Phật
giáo Trung Hoa.
Khoảng cuối thập niên 30, đức Giới
Nghiêm nghe tin ở Sài gòn - Gia Ðịnh có phái đoàn truyền giáo của Phật giáo Nguyên Thủy
do người Việt Nam tu tập ở Campuchia mang về. Nghe tin này Ngài rất mừng,
dự định là sẽ tìm gặp phái đoàn truyền giáo do Hoà thượng Hộ Tông lãnh
đạo; Ngài cho các huynh đệ đồng tu biết chuyện này. Một hôm, Ngài và
chín huynh đệ nữa trực chỉ hướng về
Sài gòn - Gia Ðịnh để tận mắt
nhìn thấy những vị chân tu theo truyền thống của Phật giáo Nguyên
Thủy Việt Nam. Ðó là các Ngài Hoà thượng Thiện Luật, Hoà thượng Hộ Tông và
Hoà thượng Huệ Nghiêm. Nhìn oai nghi tế hạnh của những vị này, Ngài nhớ
đến những tu sĩ Lào mà Ngài trông thấy
ở Huế gần mười năm trước. Ôi! Sao lạ thế,
trông chẳng khác chút nào, quí Ngài đẹp và thanh tịnh làm sao. Ngài nghĩ thầm:
"Ta đã tìm đúng giáo phái mà ta đã mơ tưởng trước đây rồi, vậy ta hãy lập tức hành động". Ngài chấp tay xá chào các vị trong
phái đoàn của Hoà thượng Hộ Tông và tự
giới thiệu về mình và các huynh đệ của
Ngài. Trong buổi gặp gỡ hôm đó
Ngài đã trao đổi rất nhiều vấn đề đạo pháp với các vị trong phái
đoàn truyền giáo của Hoà thượng Hộ Tông. Hoà thượng Hộ Tông giải
đáp cho đức Giới Nghiêm những thắc mắc
đã cưu mang trong lòng nhiều năm qua. Hoà thượng Hộ Tông nói: "Những thắc
mắc của thầy cũng giống như những thắc mắc của tôi ngày xưa khi chưa gặp
Phật giáo Nguyên Thủy". Lời lẽ, đạo hạnh của
phái đoàn truyền giáo của Hoà thượng Hộ Tông đã thu hút đức
Giới Nghiêm và chín huynh đệ.
Ðức Giới Nghiêm tiếp tục hỏi Hoà thượng Thiện Luật: "Chúng tôi muốn
tu theo quí Ngài có được không; và thủ
tục như thế nào?".
- Ðược. Nhưng theo giới luật, thầy phải làm giới tử 3 tháng - Hoà
thượng Thiện Luật đáp.
Hoà thượng Thiện Luật hỏi các vị trong phái đoàn và trả lời tiếp:
- Tốt hơn hết là quí thầy nên sang Campuchia làm giới tử và xuất gia ở
đó, vì chúng tôi tu theo đạo Phật Nguyên Thủy không được bao lâu. Nếu quí vị đồng ý, chúng tôi sẽ giới
thiệu chùa và bổn sư để quí vị tu
học.
Ðức Giới Nghiêm trầm tư suy nghĩ trong giây lát và nói: "Vậy xin các
Ngài hoan hỷ giới thiệu cho chúng con".
Hoà thượng Thiện Luật đáp: "Sàdhu,
Sàdhu, Sàdhu".
Năm 1944, đức Giới Nghiêm giã từ
quê hương. Tuy nhiên, trước ngày đức Giới
Nghiêm rời quê hương Việt Nam sang đất
nước chùa tháp Campuchia tu học chỉ còn ba huynh đệ thôi; những vị kia còn nặng nợ đời thường nên ở lại Sài gòn - Gia định. Khi sang đến Campuchia tu học chỉ còn
lại một mình đức Giới Nghiêm, hai vị
kia cũng bùi ngùi chia tay trở về đời thường.
Nhìn những huynh đệ ra đi, Ngài
rất động tâm và lấy điều đó để tự thức tỉnh cho mình.
Trên con đường tu học, dùi mài kinh
sách ở đất nước chùa tháp Campuchia,
đức Giới Nghiêm tinh tấn không biết
mệt mỏi. Kết quả là lúc 20 giờ 20 ngày 08 tháng 3 năm 1947, đức Giới Nghiêm được thầy bổn sư cho thọ đại giới, xuất gia Tỳ kheo
theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, thầy thế độ là Hoà thượng Visuddhiransì và thầy Yết
ma là Candavijìra. Trong thời gian ở Campuchia, Ngài cũng có dịp sang Thái
Lan để tu học thêm.
Sau 9 năm tu học ở Campuchia và
Thái Lan, Ngài quyết định trở về Việt Nam để
chia xẻ hương vị pháp bảo với đồng bào trong nước, và hợp tác với
các vị trong phái đoàn truyền giáo của
Hoà thượng Hộ Tông để thành lập Giáo
hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Vì
Ngài là người Huế nên muốn đem hương vị pháp
bảo này truyền bá trên quê hương của mình, trước là để đền ơn song thân giáo dưỡng, và sau là
báo đáp thầy tổ đã nuôi lớn tâm hồn
mình. Ðầu tiên, Ngài về thăm cha mẹ, anh em
và họ hàng. Ðược biết thân mẫu đã qua đời khi
Ngài còn tu học ở xứ người, nhưng gia đình đã
không báo tin cho Ngài biết, vì sợ tin buồn đó sẽ chi phối việc học đạo của Ngài; Ngài
nén cơn xúc động và giảng cho gia
đình nghe về giáo lý vô thường của
đạo Phật. Sau đó Ngài ghé thăm một số vị tôn đức Bắc Tông quen biết ngày
trước như Ôn Trí Thủ, Ôn Châu Lâm. Gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, các vị hàn huyên tâm sự về đạo pháp thật nhiều. Các vị đã vấn đạo với nhau nhiều ngày đêm. Ðức Giới Nghiêm có viết một quyển sách
mỏng kể lại cuộc đối thoại lịch sử
này, với nhiều đề tài như Tiểu
thừa, Ðại thừa, ăn chay, ăn mặn,
v.v...
Sau đó Ngài dến thăm chùa Phổ Ðà ở Ðà Nẵng, nơi Ngài được thầy truyền thọ đại giới Tỳ kheo theo truyền
thống Bắc Tông. Ở đây, Ngài được mời
giảng giáo lý Nguyên Thủy cho Phật tử và chư Tăng Bắc tông. Thời giảng của Ngài giúp cho
chư Tăng và Phật tử có cái nhìn đúng đắn về Phật giáo truyền thống.
Ðiểm đáng nói là tại chùa Phổ Ðà
này, chính là nơi manh nha để hình
thành việc ra đời chùa Tam Bảo- Ðà
Nẵng năm 1953 - ngôi chùa Phật giáo
Nguyên Thủy đầu tiên ở miền Trung.
Phật tử thấy đạo mới lạ và phong cách
khả kính của đức Giới Nghiêm khiến cho
họ tăng thêm lòng tín thành nơi Tam
Bảo nên họ rũ nhau đến quy y và học
đạo với đức Giới Nghiêm ngày càng
đông. Ngoài ra, còn có nhiều vị tu sĩ
trong truyền thống Bắc Tông quyết định chuyển
sang tu trì theo tông phái Nguyên Thủy của đức Giới Nghiêm, điển hình như Hoà thượng Hộ Nhẫn (Tăng trưởng Phật giáo Nam Tông vừa viên
tịch).
Nhờ số lượng tín đồ Phật tử ngày
càng đông, người xuất gia tu học cũng khá
nhiều nên ở đây đã thành lập
được chùa Tam Bảo với sự hỗ trợ của
Ngài Hộ Tông và Ngài Bửu Chơn v.v... Ðấy cũng là những nhân tố thuận lợi
cho việc thành lập thêm chùa Tăng Quang ở Huế
sau này.
3. Những điểm thuận
lợi và khó khăn
Việc gì trên đời này để thành công cũng phải có cái giá của nó.
Nếu thành công mà không có những khó khăn,
trở ngại thì sự thành công ấy sẽ trở nên tầm thường. Việc du nhập
luồng tư tưởng Phật giáo Nguyên Thủy vào cố đô Huế của Hoà thượng Giới Nghiêm là cả một
quá trình nhiêu khê trong lịch sử hoằng pháp của Phật giáo Nguyên Thủy
Việt Nam. Nguyên do là Phật giáo Nguyên Thủy rất xa lạ, mới mẻ đối với cư dân địa phương và có nhiều điểm tu học khá quan trọng tương phản với Phật giáo
Bắc tông vốn có nguồn gốc lịch sử, lâu đời trên mảnh đất này. Thế nên Phật giáo Nguyên Thủy
truyền bá được trên đất Huế là một thành công lớn của đức Giới Nghiêm. Chúng ta cần tìm hiểu các
yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn khi Phật giáo
Nguyên Thủy được giới thiệu ở cố đô
Huế.
a) Thuận lợi:
- Vì đức Giới Nghiêm là người Huế
nên sự hiện diện của Ngài trên làng quê của mình để dạy đạo cho Phật tử và thân bằng quyến
thuộc theo giáo pháp Nguyên Thủy thì không có gì trở ngại đối với dân làng và chính quyền địa phương. Họ xem Ngài giống như một vị
tiên thánh đã học được phép mầu linh nghiệm gì đó ở xứ người và giờ đây Ngài chia xẻ phép mầu đó cho thân quyến và Phật tử. Họ hoc rất
chân thành, niềm tin kiên cố và đạo tâm vững
chãi. Niềm tin đó dường như bất di bất
dịch với thời gian và không gian. Ðến ngày nay con cháu của họ vẫn
còn sắt son một lòng vì đạo, xem đạo Phật
Nguyên Thủy như là nguồn suối đạo đức
tươi mát không thể thiếu trong gia đình.
- Vì đức Giới Nghiêm trước khi xuất
gia theo Phật giáo Nguyên Thủy là một vị tỳ kheo của Phật giáo Bắc tông,
có thầy tổ và huynh đệ khá đông ở Huế
và Ðà Nẵng. Gặp gỡ lại huynh đệ
và thầy tổ, mặc dù trong hình thức tông phái khác nhau nhưng các vị
tương đối cảm thông cho nhau. Quí Ngài
quan niệm vườn hoa chánh pháp phải có trăm
sắc nghìn vẻ để tô điểm giáo lý của
đức Từ bi, đồng thời khế hợp nhịp nhàng để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng thuộc nhiều căn cơ
của đồng bào Phật tử. Nếu như quá cứng nhắc, cục bộ sẽ có nguy cơ
làm cho Phật Pháp khô héo, quần chúng Phật tử không thường đến chùa hoặc bỏ đạo theo những tôn giáo khác. Chính nhờ quan niệm
phóng khoáng như vậy, chư vị huynh đệ và thầy tổ của đức Giới Nghiêm ít nhiều cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài truyền bá Phật
giáo Nguyên Thủy tại Huế và Ðà Nẵng. Thể hiện như vậy là không phân biệt
tông phái trong đạo Phật, giúp cho người
huynh đệ cùng lý tưởng trong ngôi nhà Phật giáo.
- Vì đức Giới Nghiêm được sự hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất của các vị
Hoà thượng trong phái đoàn
truyền giáo miền Nam của Hoà thượng Hộ Tông. Ðồng thời lúc bấy giờ Giáo
hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam
đã được
nhà nước thời ấy công nhận, có pháp lý và pháp quyền. Ðức Giới
Nghiêm cũng là thành viên trong Ban Chưởng Quản.
- Vì Giáo lý Nguyên Thủy chỉ thẳng những điều thực tế trong cuộc đời với ngôn từ bình
dị, dễ hiểu, không dùng nhiều Hán tự. Giáo lý hướng đến tinh thần tự giác, vô ngã, vị tha, lấy
nhân quả làm đầu, không chấp nhận mê
tín dị đoan. Lại nữa, nhân cách, phương pháp
tu tập, nghi lễ của đức Giới Nghiêm và chư Tăng hoàn toàn giản dị nhưng trang nghiêm nên
quần chúng rất tín mộ, đến tìm hiểu và
học đạo khá đông.
b) Khó khăn:
- Ðạo Phật Nguyên Thủy rất mới lạ ở Việt Nam nên không thể nào không có
sự chống đối mãnh liệt của một số
người trong các môn phái bạn cổ truyền vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm màu sắc Trung Hoa từ xưa đến nay.
- Tình trạng chia cắt đất nước vào
năm 1954 làm giới hạn con đường hoằng pháp của đức Giới Nghiêm, ít
nhiều cũng ảnh hưởng rất lớn trong việc khai mở đạo Phật Nguyên Thủy tại cố đô Huế. Chính sách kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Ngô
Ðình Diệm cũng là một yếu tố bất lợi.
Mặc dù vậy, đức Giới Nghiêm trong
tinh thần Từ bi hỷ xả, thực hiện hạnh nhẫn nại của đạo Phật để khắc phục những khó khăn khi đối diện
những thử thách lúc đạo Phật Nguyên Thủy mới chập chững đặt nền tảng trên mảnh đất sông Hương, núi Ngự. Nhờ biện tài khôn
khéo; ngoại giao, ứng xử thấu tình đạt lý
nên đức Giới Nghiêm đã dễ dàng vượt qua mọi cam go, trở
ngại.
4. Ðôi nét về cuôc đời người khai sáng và các vị có
công truyền bá.
4.a) Tóm tắt tiểu sử đức Giới
Nghiêm, người khai sáng Phật giáo Nguyên Thủy tại Huế.
Hoà thượng Giới Nghiêm, thế danh Nguyễn Ðình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5
năm 1921 tại Giạ Lê thượng, xã Thủy
Phương, huyện Hương Thủy, Thành phố Huế. Con của cụ ông Nguyễn Ðình Tải
(Hoà thượng Thích Quang Diệu) và cụ bà Huỳnh Thị Thành.
Năm 1930,
Ngài xuất gia Sa di tại một ngôi chùa thuộc địa phận làng Bãng Lãng, huyện Hương Trà,
thành phố Huế.
Năm 1940 (Canh Thìn), xuất gia Tỳ
kheo tại chùa Phổ Ðà - Ðà Nẵng theo truyền thống Phật giáo Bắc tông.
Năm 1947 xuất gia Tỳ kheo ở chùa
Sirìsàgara tại Campuchia, Hoà thượng bổn sư là Ngài Visuddhiransì và Ngài
Candavijìra là thầy Yết ma theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy.
Hoà thượng Giới Nghiêm viên tịch ngày 13 tháng 7, Giáp Tý, tức ngày
9/8/1984 tại chùa Phật Bảo, hưởng thọ 64 tuổi (theo cách tính Âm lịch Việt
Nam).
Những điểm đáng lưu ý trong cuộc đời của
Hoà thượng
- Năm 1953, đức Giới Nghiêm xây
dựng chùa Tam Bảo - Ðà Nẵng với ý định
làm trụ sở Phật giáo Nguyên Thủy miền Trung.
- Năm 1954, Ngài tham dự đại hội kết tập Tam Tạng lần thứ VI tại Miến
Ðiện. Sau khi kết thúc đại hội, chư
Tăng phái đoàn Việt Nam về nước, còn Ngài xin ở lại tham học thiền
quán. Và Ngài là vị Tăng đầu tiên của
Phật giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam học pháp môn thiền Minh sát tuệ với Hoà
thượng thiền sư Mahàsì Sayadaw tại Miến Ðiện. Chư Tăng Ni và Phật tử Việt Nam vẫn còn duy trì
tu tập phương pháp này cho đến ngày
nay.
- Ngài là một trong các vị thuộc phái đoàn truyền giáo của Hoà thượng Hộ Tông
đệ đơn xin chính phủ thành lập Giáo
hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, và
được công nhận vào ngày 18/12/1957.
Trụ sở trung ương đặt tại Kỳ Viên tự,
số 610 Phan Ðình Phùng, Quận 3, Sài gòn.
Năm 1954 - 1959, Ngài cùng một số
chư Tăng xây dựng chùa Tăng Quang. Ðây là ngôi Tam Bảo tổ đình Phật giáo Nguyên Thuỷ tại cố đô Huế.
- Ngày 29/1/1967, đức Tăng thống Giới
Nghiêm và tám thành viên trong Ban chưởng quản GHTGNTV: Tỳ kheo Tối
Thắng, Tỳ kheo Thiện Căn, Tỳ kheo Thiện Quả,
Tỳ kheo Pháp Trí, Tỳ kheo Giác Quang, Tỳ kheo Ẩn Lâm, Tỳ kheo Pháp Quang,
Tỳ kheo Pháp Lạc - đồng ký tên giữ vững lập trường rút GHTGNTVN ra
khỏi GHPGVNTN. Ðây là một quyết định khá phức
tạp, gây dư luận và bất ngờ cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Sau đó, vào ngày 31/1/1967, cuộc họp bất thường được tổ chức tại trụ sở trung ương Kỳ Viên
tự. Thành phần tham dự gồm các vị lãnh đạo
của Ban Chưởng quản GHTGNTVN và 16 ký giả báo chí của thủ đô Sài gòn đến
phỏng vấn đức Tăng thống về lý do tại sao rút GHTGNTVN ra khỏi GHPGVNTN.
Ngài trả lời:
- "Nhận thấy có một số vị Tăng kể từ
ngày tham gia GHPGVNTN giới luật không trang nghiêm. Rút ra
để chỉnh đốn lại.
- "Nhận thấy GHTGNTVN bị Phật giáo Bắc tông chèn ép thái quá. Ðiển
hình là văn thư của Thượng tọa Huyền Quang
gởi các cơ quan công quyền tại miền Trung để ngăn chặn việc xây dựng
chùa Huệ Quang ở Bình Ðịnh, thư đề
ngày 22/2/1966. Biết được văn thư đó,
Giáo hội chúng tôi gởi văn thư đến Viện Tăng thống và Viện Hoá
đạo nhờ can thiệp nhưng không thấy lưỡng viện
phúc đáp. Do đó Giáo hội Nguyên Thủy chúng tôi quyết định rút ra khỏi GHPGVNTN."
Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt
Nam thành lập tháng 12/1957 đến ngày
gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam 1981 có tất cả là 11 nhiệm kỳ Tăng thống. Ðức Giới Nghiêm đã đảm nhiệm
chức vụ Tăng thống liên tiếp các nhiệm kỳ 4, 5, 6, 7 (1964 - 1971)
và nhiệm kỳ cuối, rồi gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sau khi nước
nhà được thống nhất. Ðây là vị Tăng Thống có uy tín được chư Tăng tín nhiệm lâu
nhất trong các vị Tăng Thống của Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt
Nam.
- Năm 1979, Ngài được Hội Phật giáo yêu nước Tp HCM và nhà
nước mời tham gia phái đoàn chư Tăng Việt Nam sang Campuchia để tái truyền giới cho
8 vị sư Campuchia bị Khmer Ðỏ bắt hoàn tục. Ngài là thầy tế độ cho 8 vị đó. Ðây là nghĩa cử tôn giáo có
ý nghĩa rất lớn, giúp thắt chặt tình đoàn kết Việt Nam và Campuchia.
- Ngày 4/7/1981 Ðại hội đại biểu thống
nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội, Ngài được cung thỉnh vào Hội đồng Chứng minh và đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội Ðồng Trị
Sự GHPGVN.
- Ðức Giới Nghiêm là vị Tăng trưởng đầu
tiên của Hệ phái Phật giáo Nam Tông Việt Nam kể từ ngày GHPGVN ra
đời.
4.b) Tóm tắt tiểu sử Hoà thượng Hộ Nhẫn.
Hoà thượng thế danh Tôn Thất Thuế, sanh năm 1924 tại thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân,
huyện Hương Trà, Thành phố Huế. Thân phụ là cụ ông Tôn Thất Tích, thân mẫu
là cụ bà Phan Thị Cưỡng.
- Năm 1937,
Ngài thi đậu bằng Primaire (Tiểu học
thời Pháp thuộc).
- Năm 1939, Ngài được cụ Tôn Thất Cổn mời làm thư ký Tôn Nhơn
Phủ ở Thành Nội Huế. Tại đây, một hôm nọ,
Ngài vào thư viện Hoàng gia đọc sách
và đọc được quyển "Cuộc đời Ðức
Phật Thích Ca"; đó là động cơ đưa Ngài đến với Chánh pháp.
- Năm 1942, rời Miếu Ðường Hoàng
gia trở về quê xin phép cha mẹ xuất gia. Lúc đầu cha mẹ không đồng ý, quyết liệt không chấp nhận
hành động cho là nông nỗi của
con. Sau đó biết ý chí con đã quyết,
cha mẹ đành im lặng nuốt lệ để con lên đường tìm đạo.
Ngôi chùa Ngài đến dừng chân học đạo
bước đầu là chùa Cao Minh; chùa này không phải là chùa thuộc truyền
thống Phật giáo Bắc tông thời đó. Ở đây
Ngài tự tu giống như những đạo sĩ
ngày xưa.
- Năm 1945, trên đường lánh nạn binh đao (chiến tranh Pháp - Việt)
Ngài gặp được chùa Vô Vi; nay
là chùa Từ Nghiêm. Ở đây Ngài cũng
tiếp tục khổ hạnh tu trì.
- Năm 1947, nghe tin ở trong Huế có Ôn
Châu Lâm đức độ cao, Ngài tìm đến thọ
giáo. Ở đây tu học hơn 2 năm, được Ôn Châu Lâm thương mến, hướng dẫn
Ngài học Kinh, Luật, chữ Hán và cho thọ giới Sa di.
Khoảng thập niên 50 đức Giới Nghiêm
về thăm song thân ở làng Giạ Lê và sau
đó có viếng thăm các vị lãnh đạo Phật giáo Huế như Ôn Trúc Lâm, Ôn Từ
Ðàm, Ôn Linh Quang; đồng thời đức Giới
Nghiêm có ghé thăm Ôn Châu Lâm. Nhờ
vậy lần đầu tiên Ngài được nhìn
thấy một vị tỳ kheo tu theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. Phong cách
uy nghi thoát tục của đức Giới Nghiêm
đã tạo nên một ấn tượng tốt đẹp và sâu sắc trong tâm tư Ngài. Một định hướng mới cho lý tưởng học Phật ngày
một lớn mạnh, thôi thúc. Thế là không bao lâu Ngài lặng lẽ từ giã thầy tổ,
huynh đệ và những người thân thương
tìm đến đức Giới Nghiêm để xin nhập môn tu hành theo Phật giáo
Nguyên Thủy.
- Năm 1952, Ngài được Hoà thượng Thiện Luật cho xuất gia Sa
di tại Tam Bảo tự (bấy giờ mới chỉ là cái thất lợp lá chia thành 4 phòng).
Và cũng trong năm này Ngài được sang Miến Ðiện dự Hội Nghị Phật giáo
thế giới lần thứ III; sau đó được ở lại để dự
đại hội kết tập Tam Tạng Thánh Ðiển Pàli lần thứ VI tại Rangoon.
Vào lúc 9 giờ 30 ngày 29 tháng 12 năm 1955,
Ngài được Hoà thượng Pokokku
Sayadaw và Hoà thượng Yết ma Nandàvasa cho thọ đại giới tại chùa Sirìmangalà, Miến Ðiện.
Những điểm đáng lưu ý trong cuộc đời của
Hoà thượng
- Mặc dù còn Sa di nhưng được các vị trong
phái đoàn Việt Nam cho tháp tùng đến
thủ đô Miến Ðiện để tham dự kỳ kết tập
kinh điển lần thứ sáu.
- Ngài người Việt Nam thứ hai được học
thiền quán Minh sát tuệ với Hoà thượng thiền sư Mahàsì Sayadaw. Khi
về Việt Nam Ngài vẫn áp dụng tu hành và hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu thiền Minh sát tuệ.
Từ ngày xuất gia cho đến lúc viên
tịch Ngài là vị thiền sư nuôi mạng bằng hạnh trì bình khất thực và chỉ thọ
dụng Tam y. Hai pháp môn đầu đà này có
hai tác dụng: vừa tu tập cho chính mình vừa nhắc nhở cho Tăng Ni về đời sống thanh cao của hạnh khất thực,
tri túc.
- Năm 1958, Ngài được Giáo hội đề cử về trụ trì chùa Tăng Quang, Huế.
- Năm 1966, Ngài thành lập Thiền
Lâm tự và kiến tạo bảo tháp Xá lợi. Ngôi Tam Bảo này tồn tại cho đến ngày hôm nay.
- Năm 1998, Ngài được Giáo hội suy tôn vào Hội Ðồng Chứng
Minh và đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ Tịch
HÐTS GHPGVN.
Ngài là vị Tăng trưởng đời thứ ba của Phật
giáo Nam Tông Việt Nam kể từ ngày thành lập GHPGVN.
Tuy hằng ngày người ta chỉ thấy Ngài tham thiền và trì bình khất thực
vào buổi sáng; một việc làm bình thường nhưng đối với bậc xuất gia rất hiếm người thực hiện được
thường xuyên, do vậy ý nghĩa và ảnh hưởng tốt đẹp do công hạnh này đối với Tăng Ni, Phật tử các giới vô cùng
lớn lao.
4.c) Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Viên Minh
Thượng tọa thế danh Nguyễn Hữu Tặng, sinh ngày 10/2/1945 tại Ðạo Ðầu,
Triệu Phong, QuảngTrị. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Hữu Xướng, thân mẫu là cụ
bà Pham thị Quy.
Xuất gia năm 1964; thọ giới Sa di năm
1964; thọ giới Tỳ kheo lúc 16 giờ 30 ngày 28/11/1965 tại trụ sở
trung ương Kỳ Viên tự. Ðức Giới Nghiêm là Hoà thượng bổn sư và là thầy thế
độ. Thượng tọa Sirìcando và Thượng tọa
Duyên Hạnh là hai vị thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
- Năm 1973, Thượng tọa đại diện Giáo hội
sáng lập chùa Huyền Không ở Lăng Cô,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thành phố Huế. Ngôi Tam Bảo này là tiền thân
của Huyền Không Sơn Thượng, Huyền Không Sơn Trung và Huyền Không Sơn
Hạ.
- Năm 1976, Thượng tọa là Tổng thư
ký Giáo hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt
Nam.
- Năm 1976, Thượng tọa trụ trì Kỳ
Viên Tự, trụ sở trung ương Giáo hội Tăng
Già Nguyên Thuỷ Việt Nam.
- Năm1990, Thượng tọa trụ trì Tổ
đình Bửu Long. Nơi đây Thượng tọa đào tạo Tăng Ni cho Giáo hội.
- Năm 1998, Thượng tọa kiến tạo
thêm thiền viện Viên Không, núi Dinh, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Thượng tọa đã sáng tác một số tác
phẩm như sau: Tuyển tập thư Thầy, Con đường
hạnh phúc, Vi Tiếuà rất có giá trị và giúp ích cho chư Tăng và Phật tử Việt Nam.
4.d) Thượng tọa Ðịnh Lực
Thượng tọa thế danh Vũ Quang Vinh, sinh ngày 24/11/1930 tại Quảng Ngãi.
Song thân là cụ ông Vũ Ðình Thư và cụ bà Phạm Thị Ðăng.
Xuất gia năm 1972; thọ giới Sa di năm
1972; thọ giới Tỳ kheo vào lúc 10 giờ ngày 5/5/1974 tại Thiền Lâm
tự - Huế. Ðức Hộ Nhẫn là Hoà thượng bổn sư và là thầy thế độ, Ðại đức
Giới Hỷ là thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
Từ năm 1979 đến
nay Thượng tọa trụ trì tổ đình
Tăng Quang, hướng dẫn Tăng Ni và Phật
tử tu hành theo Phật giáo Nguyên Thủy.
Mặc dù bận Phật sự và tuổi cao sức yếu nhưng Thượng tọa vẫn làm thơ và
trước tác một số tác phẩm rất hữu ích: Nguồn sáng vô tận, Cẩm nang y dược,
Dẫn lối về nguồn, Hoa đạo, Vườn thơ ý đạo, Tạ
từ.
Ðặc biệt nhất là quyển "Dẫn lối về nguồn", đây là công trình sưu tập pháp của Thượng
tọa sau mấy mươi năm học đạo. Sách
trình bày dưới dạng hỏi đáp. Lời văn
khúc chiết, gẫy gọn và cô đọng.
4.e) Tóm tắt tiểu sử Thượng tọa Giới Ðức
Thượng tọa thế danh Nguyễn Duy Kha sinh ngày 19/7/1944 tại Giạ Lê
thượng, Hương Thuỷ, Thành phố Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Duy Hoan và
thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sừng.
Xuất gia năm 1973; thọ giới Sa di năm
1973, thọ giới Tỳ kheo lúc 9 giờ 58 phút, ngày 17/2/1977 tại Tam
Bảo tự - Ðà Nẵng. Ðức Giới Nghiêm là bổn sư và là Hoà thượng thế độ. Ðại đức
Giới Hỷ là thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
- Thượng tọa là nhà thơ có tên tuổi ở đất thần kinh. Ðã xuất bản nhiều tập thơ:
Chèo vỡ sông trăng, Ðá trắng chiêm
bao, Lửa lạnh non thiêng, Tình mẹ - mùa báo hiếu, ...
- Là nhà văn rất nổi tiếng trong giới Phật
giáo; những tác phẩm của Thượng tọa chẳng những có giá trị trong đạo
mà còn đóng góp không nhỏ cho nền văn
chương của dân tộc Việt Nam như: Người trồng hoa và chàng tu sĩ,
Kinh lời vàng (phổ thơ Kinh Pháp cú), Ngàn xưa hương Bối, Một cuộc
đời - một ngôi sao, Chuyện cửa thiền,
Hành hương tâm linhà
- Từ năm 1976 đến năm 1989, Thượng tọa trụ
trì chùa Huyền Không. Trong thời gian này Thượng tọa vận động hiệp hội Schmitz thông qua Phật tử tại
Ðức xây cầu Bạch Yến giúp đồng
bào địa phương. Ðây là một công
tác xã hội vô cùng có ý nghĩa.
- Từ năm 1989 đến nay. Thượng tọa trụ
trì Huyền Không Sơn Thượng. Tại cơ sở mới này Thượng tọa tiếp tục
sáng tác thơ văn và góp phần đào tạo Tăng
tài cho Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam.
4.f) Thượng tọa Hộ Tịnh
Thượng tọa thế danh Hồ Ngọc Tịnh. Sinh năm
1945 tại Thế Chí tây, Phong Ðiền, Thành phố Huế. Song thân là cụ
ông Hồ Ngọc Sách và cụ bà Nguyễn Thị Con.
Xuất gia năm 1965; thọ giới Sa di năm
1967; thọ giới Tỳ kheo vào lúc 9 giờ 45 phút ngày 24/6/1979 tại trụ
sở trung ương Kỳ Viên tự. Ðức Ẩn Lâm là Hoà thượng thế độ và Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Pháp
Tuệ là thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
Hiện nay Thượng tọa là giám tự chùa Thiền Lâm.
- Sống chung với Hoà thượng Hộ Nhẫn nhiều năm bằng hạnh ẩn cư thiền định. Do nếp sống độc cư
trên núi nên chư Tăng và Phật
tử ít biết đến Thượng tọa. Nhưng với
đờì sống trầm lặng như thế, Thượng tọa đã giới thiệu một bài học vô ngôn, một tấm
gương sáng ngời cho thế hệ mai sau.
- Mặc dù bệnh tật thường xuyên gây chướng ngại cho bản thân và thích
sống trầm lặng, nhưng sau khi Hoà thượng bổn sư (đức Tăng trưởng Hộ Nhẫn) viên tịch, Thượng
tọa đã theo lời mời của chư Tăng tại Huế, đứng ra đảm trách Phật sự đa đoan tại
Thiền Lâm tự.
4.g) Thượng tọa Pháp Tông
Thượng tọa thế danh Nguyễn Văn Thông, sinh
ngày 10/3/1957 tại Hải Lăng, Quảng
Trị. Song thân là cụ ông Nguyễn Văn
Thụy và cụ bà Nguyễn Thị Quyến.
Xuất gia năm 1971; thọ giới Sa di năm
1973; thọ giới Tỳ kheo vào lúc 10 giờ, ngày 24/6/1979 tại trụ sở
trung ương Kỳ Viên tự. Ðức Ẩn Lâm là Hoà thượng thế độ và Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Pháp
Tuệ là hai vị thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
- Từ năm 1989 đến nay là trụ trì
chùa Huyền Không - Ngôi Tam Bảo này từ năm
1998 - 2002 là văn phòng của Hệ
phái Nam Tông và cũng là nơi đào tạo
Tăng tài cho Phật giáo Nguyên Thủy
Việt Nam hiện nay.
- Tháng 3 năm 1993 Thượng tọa khởi xướng
đại trùng tu Phật điện. Nhờ sự hỗ trợ
nhiệt thành của Tăng Ni Phật tử xa
gần, nhất là sự giúp đỡ của Hoà
thượng Pháp Nhẫn, Thượng tọa Viên Minh, sư cô Trí Hạnh nên tới tháng 3
năm 1995 Phật sự viên thành. Lễ khánh
thành và kiết giới Sìmà dược tổ chức trọng thể suốt ba ngày dưới sự chứng
minh của Hoà thượng Hộ Nhẫn, Hoà thượng Danh Nhưỡng và 56 vị Tỳ kheo Phật
giáo Nguyên Thủy. Ngoài ra còn có hơn 80 Tăng
Ni Bắc tông, hơn 20 Sa di Nam Tông và trên 1000 Phật tử các giới
tham dự.
- Thượng tọa là Chánh văn phòng,
trợ lý thứ nhất cho Hoà thượng Hộ Nhẫn, Phó chủ Tịch HDTS - GHPGVN kiêm
Tăng trưởng Hệ phái Nam Tông, uỷ viên
Ban Trị sự Phật giáo Thành phố Huế, là người tổ chức và điều hành các Phật sự trọng yếu của Phật
giáo Nam Tông tại Thành phố Huế.
4.h) Thượng tọa Tuệ Tâm
Thượng tọa thế danh Quách Cà, sinh ngày 15/8/1956 tại khu phố Phú Hiệp,
thành phố Huế. Song thân là cụ ông Quách Sỏ và cụ bà Trần Thị Cháu.
Xuất gia năm 1974; thọ giới Sa di năm
1974; thọ giới Tỳ kheo vào lúc 10 giờ 15 phút, ngày 24/6/1979 tại
trụ sở trung ương Kỳ Viên tự. Ðức Ẩn Lâm là Hoà thượng thế độ và Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Pháp
Tuệ là hai vị thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
- Thượng tọa là uỷ viên Ban trị sự tỉnh hội
Phật giáo Thành phố Huế.
- Mặc dù là nhà sư Nam Tông nhưng Thượng tọa vẫn tham gia rất tích cực
trong Tuệ Tĩnh đường Diệu Ðế. Bàn tay
của Thượng tọa đã cứu giúp biết bao
nhiêu bệnh nhân khỏi chứng bệnh hiểm nghèo. Tuy là thầy thuốc nhưng Thượng
tọa đã khéo léo truyền bá giáo lý của
nhà Phật bằng con đường chữa bệnh cứu người
hiện thực và hữu hiệu. Rất nhiều Phật tử ở những tôn giáo khác
đã biết được Phật giáo Nguyên Thủy qua những lần gặp
gỡ Thượng tọa bắt mạch và hốt thuốc.
4.i) Tóm tắt tiểu sử Ðại đức Giới Hỷ
Ðại đức thế danh Nguyễn Tấn Bạn, sinh
ngày 16/7/1941 tại Bình Ðào, Thăng
Bình, Quảng Nam.
Thọ giới Tỳ kheo lần đầu lúc 18 giờ
ngày 15/3/1963 tại chùa Tam Bảo - Ðà Nẵng. Hoà thượng Giới Nghiêm
là bổn sư và là thầy thế độ, Thượng tọa Hộ
Giác và Thượng tọa Dũng Chí là hai vị thầy Yết ma.
Những điểm đáng lưu ý
- Thập niên 60, Ðại đức đại diện Giáo hội
để hoằng pháp tại chùa Tăng Quang. Ở
đây ngoài việc hướng dẫn Tăng Ni, Phật
tử tu hành theo giáo lý Nguyên thuỷ, Ðại đức còn tích cực hoạt động từ thiện xã hội như: giúp đỡ những người già neo đơn, cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ
lụt.
- Ðại đức có công đại trùng tu ngôi
chánh điện Tăng Quang tự và kiến tạo
Bảo tháp tôn thờ Xá lợi đức Phật Thích Ca,
xây dựng một trường Bồ Ðề cho học sinh cấp I.
- Mặc dù là tu sĩ nhưng Ðại đức cũng tham
gia hoạt động cách mạng.
- Ðại đức làm thầy Yết ma cho nhiều
vị sư của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam.
- Vì hoàn cảnh gia đình và cuộc
sống, năm 1979 Ðại đức hoàn tục; và năm 1996 xuất gia trở lại. Hiện nay Ðại đức là phó ban đại diện huyện và uỷ viên Ban trị sự tỉnh
Quảng Nam kiêm trụ trì chùa Giác Viên.
Ngoài ra còn có rất nhiều vị Tăng đóng góp
công sức cho Phật giáo Nguyên Thuỷ ở Huế từ giai đoạn hình thành đến phát triển, nhưng không được đề cập đến
là vì không có sự liên tục. Có rất nhiều vị xuất thân từ Huế nhưng
khi trưởng thành thì định cư ở hải ngoại hoặc
các tỉnh khác như Ðồng Nai, Sài gòn. Ðiều đó rất hay nhưng nếu tất cả đều như vậy thì
Phật giáo Nam Tông ở Huế sẽ đi về đâu?
Ðiển hình như Phật giáo Nam Tông ở Quảng Ngãi, Ðà Lạt, Nha
Trang.
Ðiều đáng trân trọng là những vị
Hoà thượng, Thượng tọa có tên ở trên gắn bó rất mật thiết với Phật giáo
Nguyên Thủy tại Huế. Nhờ sự hiện diện của các vị này nên Phật giáo Nguyên
Thủy có thế đứng vững chãi và tương
đối có tầm cỡ tại thành phố
Huế.
5. Những Thiện Nam Và Tín Nữ Hộ Trì Tam Bảo Ðầu Tiên
Thiện nam và tín nữ là hai thành phần quan trọng của hàng Tứ chúng
trong Phật giáo. Ðạo Phật được truyền bá sâu
rộng hay không là nhờ sự hỗ trợ của hai thành phần này. Nếu thiếu
hai thành phần thì chẳng khác nào ao sen ở giữa rừng hoang, không có người
thưởng thức.
Do đó việc du nhập Phật giáo Nguyên
Thủy vào cố đô Huế được thành công là
do công đức rất lớn của những thiện nam
và tín nữ hộ trì Tam Bảo đầu
tiên để đức Giới Nghiêm hoàn
thành sứ mạng thiêng liêng cao cả của mình đối với Phật giáo Nguyên Thủy tại đất thần kinh. Trong số thiện nam và tín nữ
đầu tiên hộ trì Tam Bảo của Phật giáo
Nguyên Thủy tại Huế có ông Nguyễn Thiện Ðông và bà Nguyễn Thị Cúc. Hai ông
bà này rất giàu có ở Huế lúc bấy giờ. Khi gặp đức Giới Nghiêm, nghe Ngài giảng về Phật
Pháp, hai ông bà chiêm nghiệm về cuộc đời
mình đã trải qua: lúc thăng, lúc trầm, buồn vui lẫn lộn của kiếp nhân sinh.
Hai người nhận rõ được yếu tố vô
thường tạm bợ của thế gian và tự thực chứng lời dạy của Ðức Phật
ngày xưa mà ngày nay đức Giới Nghiêm
giảng dạy lại cho mình, sao quá gần gũi, thực tế, sống động nên đã đánh thức
nỗi niềm tâm tư của ông bà. Từ đó, hai
ông bà tự phát tâm tín thành Tam Bảo và nguyện trọn đời quy y và hộ trì Tam Bảo.
Lúc bấy giờ, ở Huế có Tăng mà không
có Tự, nên ông Thiện Ðông và bà Cúc xin phép đức Giới Nghiêm cho thành lập một ngôi chùa
Phật giáo Nguyên Thủy ở Huế để chư Tăng có
nơi tu hành và Phật tử có nơi lễ bái cúng dường. Ðức Giới Nghiêm
nhận thấy lời đề nghị của ông Thiện
Ðông và bà Cúc rất hay và hợp thời nên đồng ý chấp nhận. Kể từ hôm ấy, ông Thiện
Ðông và bà Cúc đứng ra vận động
tài chánh của bà con thân thuộc và bạn hữu của mình để mua căn nha số 1/1 đường Võ Tánh, Huế và
thành lập ngôi chùa đầu tiên của Phật
giáo Nguyên Thủy tại Huế, tức chùa Tăng Quang
ngày nay.
Khi chùa thành lập xong, đức Giới
Nghiêm muốn Phật giáo Nguyên Thủy phát triển mạnh mẽ nên chỉ thị
Ðại đức Giới Hỷ thành lập Ban quản trị
chùa Tăng Quang để hàng cư sĩ có đủ pháp lý cùng chư Tăng hộ trì Tam Bảo và hoằng dương Chánh
Pháp. Từ đó, ông Sắc, ông Ðinh và ông
cụ Ðồng thay phiên nhau làm Chánh và Phó hội trưởng.
Ðồng thời trong chiều hướng phát triển, những Phật tử có đức tin kiên cố của chùa Tăng Quang như: bà Thông Lang, ông bà Tùng,
ông bà Bê, chú Tuyên, chú Tề, ông bà Mãi, bà Cháu, cô Bảy, bà Phúc, bà
Nghè Hai, cô Lớn v.v... và thường trực đến hỗ
trợ chùa Tăng Quang và tiếp tay
với Ðại đức Giới Hỷ đại trùng tu ngôi
chánh điện; kiến tạo thêm một bảo tháp
để tôn thờ Xá lợi và xây một dãy
trường Bồ Ðề cho học sinh cấp I.
Chính nhờ Thiện nam Nguyễn Thiện Ðông và Tín nữ Nguyễn Thị Cúc và quí
ông bà có tên vừa nêu trên làm nền móng vững chắc mà chùa Tăng Quang được kiến tạo nên. Và chính nhờ cơ
sở đó, Phật giáo Nguyên Thủy có nơi
bám trụ và phát triển cho đến ngày hôm
nay tại Thành phố Huế.
-ooOoo-
Nguồn:
www.budsas.org |