..
|
Hòa thượng Hộ Nhẫn
Khantipala Mahathera
(1924 - 2002)
Thành viên Hội đồng Chứng minh
GHPGVN
Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
Tăng trưởng Hệ phái Nam Tông
Tọa chủ Thiền Lâm sơn tự, Huế
Trưởng Lão Hòa Thượng thế danh Tôn
Thất Thuế, sinh năm 1924 tại thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài thuộc dòng dõi hoàng gia Đệ cửu hệ, Tứ phòng. Phụ
thân là Cụ ông Tôn Thất Tích, pháp danh Nguyên Phước, mẫu thân là Cụ bà Phan
Thị Cưỡng, pháp danh Nguyên Thâm, đều là những nông dân hiền lương, chất phác.
Ngài có tất cả năm anh chị em, hai trai, ba gái. Hiện tại, một gái đã mất, còn
Ngài và hai em gái đều theo Phật xuất gia. Hai thân Ngài đều đã khuất núi.
I. Thuở ấu thời
Ngài có thể chất văn nhược, mảnh dẻ
nhưng có ý chí, nghị lực phi thường; đặc biệt là thông minh, sáng dạ. Năm
1934, lúc 10 tuổi, Ngài đã đỗ bằng Yếu lược. Năm 1937, lúc 13 tuổi Ngài đỗ
bằng Primère. Sự học đang thành đạt như vậy nhưng vì gia đình quá nghèo khổ,
Ngài đành phải bỏ học để phụ giúp công việc ruộng vườn với cha mẹ.
Năm 1939, lúc 15 tuổi, mặc dù còn nhỏ
nhưng do tư cách, phẩm chất đứng đắn, Ngài được cụ Tôn Thất Cổn mời làm thư ký
cho Tôn Nhân Phủ ở Thành Nội Huế. Công việc của Ngài là trông coi sổ sách giấy
tờ cho Thế Miếu. Ba năm làm việc ở đây, Ngài vừa có đồng lương đỡ đần gia đình
vừa có thì giờ để nghiên cứu kinh sách.
II. Xuất gia tầm đạo
Hôm kia, duyên lành dẫn dắt, Ngài đọc
được một quyển sách nói về cuộc đời Đức Phật Thích Ca từ Đản Sanh đến Nhập
Diệt. Xúc động quá, Ngài tự nghĩ: "Cuộc đời vắn vỏi, sống chết vô thường, ta
phải noi gương Đức Phật từ bỏ tất cả để tầm cầu Con Đường Vô Thượng. Đây mới
là ước mơ chân chính trên thế gian này mà từ lâu ta hằng mơ hồ dự cảm".
Thế rồi, năm 1942, sau khi suy nghĩ
chín chắn, Ngài rời Miếu Đường Hoàng gia trở lại quê nhà, khẩn khoản, tha
thiết xin cha mẹ xuất gia làm cho hai vị rất ngạc nhiên Con đường công danh sự
nghiệp đang mở rộng, một đời sống hạnh phúc, cơm no áo ấm đầy hứa hẹn ở tương
lai, sao đứa con lạ đời này lại chối từ tất cả? Dẫu thương con nhưng cũng
không thể chiều theo ý con để chấp nhận ước vọng nghịch đời, cha mẹ Ngài thẳng
thừng từ chối. Tuy nhiên, vừa hiếu từ, vừa ôn nhu; Ngài lấy khổ nhục để tỏ bày
ý chí kiên định của mình nên cuối cùng, cha mẹ Ngài đành nuốt nước mắt cho
Ngài ra đi.
Thế là vừa tròn 18 tuổi, người con
trai nom vẻ khô gầy nhưng cương nghị ấy đã tự cạo đầu, khoác áo nâu sồng tìm
đến chùa Cao Minh trong làng xuất gia tu học. Ở đây, Ngài phải tự mày mò tìm
kiếm, tự đọc kinh sách và suy nghĩ pháp môn thích hợp cho mình. Tu khổ hạnh là
con đường mà Ngài lựa chọn. Thế rồi, mỗi ngày, Ngài chỉ dùng một nắm rau sống
bất kể xanh hay vàng, không có muối cùng với bát nước trong, chẳng dùng thêm
bất kỳ một thứ gì khác.
Năm 1945, do chiến tranh bom rơi đạn
lạc, Ngài cùng với số người thân cận tìm cách tản cư. Trên đường về Huế, gặp
chùa Vô Vi, Ngài xin ở lại đây để tu tập. Pháp môn khổ hạnh Ngài vẫn duy trì,
đồng thời Ngài vẫn lấy hơi thở làm đề mục thiền định.
Thời gian trôi qua, tính đến hôm ấy
thì Ngài ăn rau sống, uống nước lã đã ba năm; thân thể Ngài chỉ còn xương và
da, cơ thể quá suy nhược, đã chết đi sống lại mấy lần nhưng Ngài vẫn kiên
định, không thối chí, ngả lòng mặc dầu các thân nhân bên cạnh khóc ngày, khóc
đêm.
Hôm kia, do quá suy kiệt, máu huyết
khô cạn, sự sống chỉ còn thoi thóp, mong manh; từ tư thế tọa thiền, Ngài bất
tỉnh, mê lả đi. Trong mơ màng, Ngài thấy có người đến lay gọi rồi nói vào tai
với đại ý rằng: "Bồ tát sáu năm khổ hạnh sai lầm, còn Thầy cũng đã hơn ba năm
khổ hạnh sai lầm. Khổ hạnh chỉ đưa đến cái chết chứ không thể đưa đến giác
ngộ, giải thoát đâu". Tỉnh lại, thấy xung quanh cửa đóng then cài, biết là chư
thiên hộ pháp kinh cảm nhắc nhở, Ngài vô cùng tri ân. Bắt đầu từ đây, Ngài ngọ
trai bằng hai chén cơm lửng, muối dưa chay đạm với một bát nước trong.
Năm 1947, lúc Ngài 23 tuổi, nghe
tiếng tu hành của Ôn Châu Lâm; Ngài từ giã chùa Vô Vi tìm đến Ôn để xin thụ
giáo. Ở đây được hai năm rưỡi, Ngài được Ôn Châu Lâm tận tình hướng dẫn Kinh,
Luật và chữ Hán, sau đó cho thọ Sa di giới. Nhờ khiêm nhu, đức hạnh, tu hành
tinh tấn nên Ngài được Thầy thương, bạn mến, gần xa người người kỉnh mộ.
III. Thọ Đại Giới và dự Hội nghị kết tập Tam
Tạng
Vào đầu thập niên 1950, Phật giáo
Nguyên Thủy đã có mặt ở miền Trung, Ngài được thấy, được gặp Hòa Thượng Giới
Nghiêm. Do tăng tướng phẩm mạo và hình ảnh tam y, nhất bát, đầu trần, chân đất
của vị sư nguyên thủy mà làm cho Ngài xúc động mạnh. Ngài tự nghĩ: "Đúng rồi!
Đây chính là hình ảnh của Đức Phật và Chư Tăng thuở xa xưa nào ở kinh thành Xá
Vệ. Con đường này hợp với chí nguyện và sở thích của ta". Thế rồi, từ giã ngôi
chùa Châu Lâm thân yêu, Ngài tìm đến Chùa Tam Bảo, Đà Nẵng và được Hòa Thượng
Giới Nghiêm hướng dẫn Kinh, Luật Pàli.
Năm 1952, Ngài được Hòa Thượng Thiện
Luật cho xuất gia Sadi, mang y bát; ngày ngày khất thực, thiền định vô cùng
tinh tấn.
Cũng trong năm này, Ngài được tháp
tùng Hòa Thượng Bửu Chơn đi Miến Điện dự Hội nghị Phật giáo lần thứ 3; sau đó
được ở lại để dự Đại Hội kết tập Tam Tạng Thánh Điển Pàli lần thứ 6 tại
Rangoon.
Vào ngày 29-12-1955, Ngài được duyên
lành tối thắng thọ Cụ Túc Giới tại thạch động Pirimangalà; Thầy Tế độ là Đại
Hòa Thượng Thánh Tăng Pokokku Sayadaw; đương nhiệm Pháp Chủ chứng minh tối cao
Đại Hội kết tập Thánh Điển Tam Tạng. Cũng là kỳ duyên hy hữu nữa, hai bậc cao
đức tôn giả vấn đáp trong Đại hội kết tập Tam Tạng là Pháp Sư Nandàvamsa tinh
thông Tam Tạng Pháp Học; và Thiền Sư Mahàsì Sayadaw, tinh thông Pháp Hành - là
hai vị thầy Yết-ma và Giáo Thọ A-xà-lê của Ngài. Tăng Hội chứng minh hôm đó
gồm 300 vị cao Tăng của thế giới. Ngoài ra, trong thời gian này, Ngài còn được
học Thiền Vipassanà với Thiền Sư Mahàsì Sayadaw nổi danh đương đại.
Sau Đại Hội kết tập Tam Tạng, Ngài thỉnh được
Xá lợi Phật, Xá lợi Chư Thánh Tăng và Tam Tạng Pàli Miến về nước. Hiện nay, Xá
lợi Phật, Xá lợi Chư Thánh Tăng được tôn thờ ở Thiền Lâm Thánh Tháp và Tam
Tạng Pàli Miến còn bảo lưu ở Chùa Tam Bảo - Đà Nẵng.
IV. Sự nghiệp hoằng pháp
Năm 1958, vì nhu cầu của Giáo Hội
Tăng già Nguyên thủy Việt Nam, Ngài rời Tam Bảo tự về trụ trì Chùa Tăng Quang,
Gia Hội, Huế; và vẫn giữ hạnh trì bát đầu đà, tùy duyên hóa độ chúng sanh.
Năm 1960, Ngài xin phép Giáo Hội rời
Tăng Quang lên thôn Thượng II, xã Thủy Xuân dựng cốc lá giữa tha ma mộ địa
vắng người để tu hành. Và chính ở đây, hạnh độc cư thiền định và trì bát đầu
đà của Ngài đã xúc động tín tâm và lòng kỉnh mộ của nhiều người.
Năm 1966, Thiền Lâm Thánh Tháp được
hình thành và lần hồi, nhờ phước đức thanh tịnh của Ngài, qua vài đợt tu sửa,
ngôi chùa mới có tầm vóc như hiện nay.
Tháng 11/1997, Ngài được cung cử vào
Thành viên Hội đồng Chứng Minh GHPGVN và Phó Chủ Tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 1998, Ngài được toàn thể Chư Tăng và Phật
Tử PGNT suy tôn lên ngôi vị Tăng Trưởng do đạo hạnh thanh cao, pháp lực nghiêm
minh và giới luật tinh khiết của Ngài.
Suốt mấy năm trường, vì công việc của
Giáo hội, nhu cầu của hệ phái, Ngài ra Bắc, vào Nam dự Đại hội hoặc đi thăm
thú các chùa đó đây luôn luôn với nụ cười hoan hỷ. Gặp Chư Tăng hay Phật Tử,
bao giờ Ngài cũng sách tấn việc tu hành với lời lẽ giản dị, từ hòa. Và điều
đặc biệt nhất, tối thắng và ưu việt nhất là nhờ "thân giáo vô ngôn" từ nơi
Ngài mà uy đức của Ngài ngày thêm sáng rỡ. Chư vị Tôn Đức, các bậc chức sắc
Giáo Hội và Chính quyền dường như ai cũng cảm mến Ngài. Chư Tăng và Phật tử
không kể Nam Bắc Tông, ai ai cũng kỉnh mộ và mến thương Ngài.
V. Năm tháng và trước giờ thị tịch
Chư Tăng và Phật Tử thân tín, ai cũng
biết là năm 2002 Ngài sẽ xả báo thân. Do đức khiêm tốn, Ngài thường nói rằng:
"Có sinh ắt có tử. Đức Phật, Niết Bàn năm 80 tuổi - nên Sư muốn ra đi với tuổi
thọ sau Đức Phật chút ít." Biết lời nguyện của Ngài nên đầu xuân 2002, một số
Phật Tử đứng ra tổ chức lễ mừng thọ Ngài. Dịp này, Chư Tăng và Phật tử đồng
quỳ xin Ngài xả bỏ lời nguyện, trụ thế một thời gian nữa để cho chúng đồ có
nơi nương tựa. Ngài chẳng gật đầu, chẳng lắc đầu, chỉ mỉm cười nói: "Thôi, thì
cứ để tùy duyên".
Hỡi ôi! Hóa ra "tùy duyên" là vậy.
Hóa ra, tùy duyên là đúng như câu kệ của Ngài Sariputta:
"Sự sống chẳng đeo níu!
Sự chết có lo chi!
Còn duyên, thời thì ở
Hết duyên, thời thì đi
Chẳng hy cầu, tham luyến
Tùy hữu vi, vô vi!"
Thế cho nên, gần 80
tuổi, sức khỏe Ngài vẫn tốt, nắng mưa sương tuyết, Ngài vẫn đều đặn khất thực
trong xóm làng, hang cùng ngõ hẹp, không bỏ một buổi nào. Ngài ra đi không cảm
mạo, không một giờ nằm bệnh, như ngọn đèn, gió thổi qua là tắt. Có lẽ nào lời
nguyện xưa của Ngài, Ngài chẳng cần dụng tâm hóa giải làm gì, cứ tùy duyên
thôi sao?
Vào lúc 8 giờ sáng,
ngày 7 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (12-10-2002), Ngài thâu thần thị tịch như đi vào
giấc ngủ vĩnh hằng, thần sắc an nhiên, tươi tỉnh. Vài phút trước khi đi, Ngài
còn tỉnh giác, chánh niệm nghiêng người lại, tay phải gối đầu giống y tư thế
Đức Phật Đại Bát Niết Bàn.
Ôi! Một ngọn núi vô
danh nhưng có một nhân cách tu hành kiệt xuất đến ở thì ngọn núi kia cũng trở
nên hữu danh! Một miền rừng cây cỏ bình thường nhưng nếu có một loài hoa kỳ lạ
xuất sinh thì cả không gian ấy đều được thơm hương! Phật giáo Nguyên Thủy Việt
Nam sau khi các bậc thạc đức, cao tăng ra đi, tòng bách thiền lâm lần hồi thưa
bóng; nhưng cuộc đời và hành trạng của Đức Tăng Trưởng quả là tàn xanh đại thụ
tỏa bóng mát sau cùng cho tất thảy Tăng tín đồ hậu tấn.
Trời đất không nói gì
mà trời thì cao, đất thì rộng. Hư không không nói gì mà hư không che chở dung
bao vạn loài! Năm mươi năm qua đi, Ngài chỉ im lặng trì bình, im lặng thiền
định mà đã để lại một vầng trăng sáng dịu giữa cuộc đời và giữa lòng người.
Ôi! Thiếu vắng Ngài thì
Phật Giáo Việt Nam thưa thớt một tàn cổ thụ, PGNTVN mất đi một người cha lành
không ai thay thế nổi; và tín đồ Phật tử mất đi một bậc chân tu sáng ngời đạo
hạnh mà người người hằng kỉnh mộ, tôn thờ.
Ngưỡng nguyện thập độ
Balamật của Ngài sớm toàn thiện và viên thành.
(Trích tài liệu của Ban Tổ Chức
Tang Lễ Cố Trưởng Lão Hộ Nhẫn,
Thừa Thiên Huế, 20-10-2002)
Nguồn:
www.budsas.org

 |
..
|