Long
ago King Bahuputakka or the “Father of Many Sons”, and his queen
consort Khema (2) ruled in Banaras (3). One day the queen dreamt of
a golden goose who spoke with the wisdom of a sage. She told the
king that she greatly desired to see and hear such a wonderful bird.
The king made enquiries and was told that there were such
birds as golden geese, but that they were rare and not easily found.
He sent for his foresters and huntsmen and asked them how such a
bird could be brought to Banaras. They advised him to construct a
lake near the city, where one day a golden goose might come.
Now at that time there lived many wild geese on Mount
Cittakuta. (4) They numbered ninety thousand in all, and their king,
Dhatarattha, was a beautiful bird with feathers of a shining golden
colour.
In the course of time, a large lake was made near Banaras, and
the king named it Khema, after his queen. Flowering trees were
planted around the lake, and water lilies and lotuses floated on the
sparkling water. Daily, corn was scattered here, and the king's
herald used to call out: “The king of Banaras welcomes all birds to
come and live in peace on this beautiful lake. They will be
protected from danger by the king's men.”
News of this lake reached the wild geese on Mount Cittakuta, and
they went to the golden goose and said, “Lord, the king of Banaras
has made a large and sweet-smelling lake near the city. He
guarantees protection to all birds who settle there. The birds will
also be fed by the foresters. Let us go and see what sort of a place
it is. We are weary of living on this mountain top.” weary of
living on this mountain top.
The golden goose agreed to their proposal, and he and his flock
flew south towards Banaras.
The king had orderd his hunters to watch regularly by the lake.
He told them that if they saw a golden goose approach the water,
they were to immediately set a snare for him. The head hunter ringed
the lake around with his men at all hours of the day and night.
Early one morning he saw a huge flock of geese and a larger
bird, whose feathers gleamed gold in the sun's rays, flying towards
the lake. Quickly, he set a snare amongst the water lilies and
lotuses. He knew that the golden goose, being the leader, would
alight first on the water.
Like a dense white cloud the ninety thousand geese drifted down
towards the lake. The golden goose settled on the water, and at once
his foot was caught in the snare. Seeing that their leader was
trapped, the flock of geese circled round, honking in distress. But
none were brave enough to attempt to rescue him. They rose up and
flew back towards Mount Cittacuta and safety.
Sumukha, chief captain of the geese, alone remained with his king.
The golden goose turned to him and said, “The other geese have all
flown away, Sumukha. Without hesitation they deserted me. Why do you
wait? Fly away quickly while you have the chance. If you remain here
you will be captured.”
Sumukha, floating gracefully on the water by the side of his king,
replied, “I will never leave you, royal goose, now that danger draws
near. I will remain and either live or die by your side.”
As they were talking, the chief huntsman came close to the lake.
Sumukha decided to try and soften the huntsman's heart and flew up
to him, begging him to let the golden goose go. The huntsman was
struck by the regal beauty of golden bird, and asked him, “Your
comrades have all fled, O noble goose. Did you not see the snare
from afar?”. “When life is coming to and end, and death draws near,
it is of no use to struggle against fate. Thus, I did not see the
snare.”
The huntsman was greatly impressed by the wisdom of the golden
goose. He asked Sumukha, And why have you alone remained? The other
geese are no longer to be seen. You are free, yet you have remained
by the side of this noble bird. Who is he, that you have not left
him in an hour of need? “He is my king, my comrade and my friend. I
will never forsake him though I die for it.”
Hearing this the hunter thought, “Indeed these are brave and
noble birds. If I harm them the gods will punish me. What do I care
for the king's reward. I will set them free.”
He said to Sumukha, “Since you are prepared to die for
friendship's sake, I will set your king and comrade free. Then fly
where you both will.”
Tenderly he loosed the golden goose's foot from the snare, and
washed the blood away in the clear pure water of the lake. He set
the dislocated muscles and tendons, and by a miracle the foot became
whole again. Not a mark showed where it has been caught.
Sumukha was overjoyed at seeing his king free, and said to the
huntsman, “May you and yours always live in prosperity, O hunter,
for your merciful act in setting my lord free.”
The golden goose asked the huntsman, “Did you capture me for
yourself, or was it at someone else's command?”
“It was by order of the king that I set the snare, noble
goose.” The hunter told the golden goose the truth, and how the
queen desired to see the wonderful bird.
The golden goose thought, “Perhaps it would be best if I went to
the city. The hunter will be rewarded. King Bahuputakka is known to
be a wise and virtuous monarch. If I appear before him of my own
free will, he will be satisfied, and may decide to give me the
freedom of this beautiful lake.” So he said to the huntsman, “Take us to the king. I will speak
with him, and then if he wishes he will set us free.”
“Noble goose, kings are not always merciful. He may decide to
keep you both as prisoners.”
“I have softened your heart, huntsman, surely I can find favour
with a great king. Leave that to me. You do your duty and take me
and Sumukha into his presence.”
So the huntsman put both birds on his carrying pole and took them to
the palace.
When the king and queen saw the two magnificent birds, one with
feathers of shining gold and the other as white as the snow on the
mountain tops, they were delighted. The king set them both on a
golden perch, and with his own hands gave them honey and fried grain
to eat, and sweetened water to drink.
The whole night through, the king and the golden goose
conversed together on the duties of kingship and the virtues of
kings. The golden goose told the king, “He that puts off until too
late the effort to do good, will sink low. He loses all knowledge
and great will be his loss. He who does not see the truth gains no
wisdom. Cherish your sons, so that they may grow wise and always
follow the path of virtue.”
Thus the golden goose advised and encouraged the king. When
dawn came, he bade farewell to the king and queen, and with the
faithful Sumukha, flew out of the northern window and to far away
Mount Cittakuta. |
Thuở
xưa, có vua Ba-Hu-Pu-Tắc-Ca (Bahuputakka) hay “Cha của nhiều con” và
hoàng hậu Khê-Ma (Khema)(2) trị vì xứ Ba La Nại (3). Ngày nọ, hoàng
hậu nằm mơ thấy một con ngỗng vàng nói chuyện như nhà hiền triết
thông thái. Hoàng hậu bảo đức vua rằng bà rất muốn thấy và nghe
tiếng con ngỗng kỳ lạ đó.
Nhà vua hỏi thăm và được biết rằng có thứ chim trông như ngỗng vàng
nhưng giống ấy rất hiếm và không dễ gì gặp thấy. Ðức vua ra lịnh cho
đi tìm cán bộ lâm nghiệp và những thợ săn để hỏi các vị ấy làm sao
có thể bắt con chim đó mang về xứ Ba La Nại. Họ khuyên nhà vua nên
xây một hồ nước vàng ấy sẽ đến.
Lúc bấy giờ, trên núi Chít-Ta-Ku-Ta (Cittakùta)(4), có rất nhiều
ngỗng rừng tới chín chục ngàn con sinh sống với ngỗng chúa tên
Ða-Ta-Rát-Tha (Dhatarattha)(5) là một loài chim có bộ lông màu vàng
óng ánh rất đẹp.
Trong thời gian ấy, đức vua truyền lịnh cho xây một cái hồ gần thành
Ba La Nại và phỏng theo tên của hoàng hậu gọi là hồ Khê-Ma (Khema).
Người ta trồng nhiều hoa xung quanh hồ cũng như thả những bông súng
và hoa sen trên mặt nước lóng lánh. Hằng ngày, lính của nhà vua vãi
lúa ở đây và thường kêu gọi như sau: “Ðức vua xứ Ba La Nại xin mời
tất cả những loài chim đến sống an lành tại hồ nước xinh đẹp này.
Quý vị sẽ được lính của nhà vua bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy.”
Tin tức về hồ này được lan truyền đến những con ngỗng rừng đang sống
trên núi Chít-Ta-Ku-Ta. Chúng tới gặp con ngỗng vàng và tâu rằng:
“Thưa Ngài, vua xứ Ba La Nại có thiết lập một cái hồ lớn và thơm
ngạt ngào gần thành phố. Nhà vua bảo vệ cho tất cả loài chim nào đến
sinh sống tại đó. Tất cả chim muông cũng sẽ được chăm nuôi bởi lính
kiểm lâm. Vậy chúng ta hãy đến và xem thử nơi ấy ra sao, chúng tôi
thật quá chán sống trên đỉnh núi này rồi”.
Ngỗng vàng đồng ý đề nghị của những ngỗng rừng, và nó cùng cả đàn
nhắm hướng nam bay về thành Ba La Nại.
Nhà vua đã ra lịnh cho các thợ săn thường xuyên canh chừng bên cạnh
hồ. Ông ta bảo họ rằng khi nào thấy ngỗng vàng tiến đến gần hồ nước
thì tức khắc sập bẫy nó. Người trưởng đoàn thợ săn chỉ thị cho các
thợ săn bao vây xung quanh hồ nước liên tục suốt ngày đêm.
Vào một buổi sớm mai, tên đoàn trưởng thợ săn thấy một đàn rất nhiều
ngỗng rừng, cùng với một con lớn hơn, có bộ lông phản chiếu ánh sáng
mặt trời lấp lánh như vàng, đang bay về phía hồ nước. Ông ta nhanh
chóng bủa lưới bao khắp quanh những bông súng và hoa sen. Người
trưởng đoàn thợ săn biết rằng con ngỗng vàng chúa đàn, sẽ bay xuống
trước đậu trên hồ nước.
Như một đám mây trắng dày đặc, chín mươi ngàn con ngỗng rừng bay sà
xuống mặt hồ. Khi ngỗng vàng vừa đậu trên nước, chân của nó liền bị
sập mắc vào lưới. Nhìn thấy chúa đàn bị bắt, đàn ngỗng trời bay lượn
quanh, kêu la thảm thiết. Nhưng không con nào có đủ can đảm để tìm
cách cứu ngỗng chúa. Chúng liền vươn lên bay trở về núi Chít-Ta-Ku-Ta
một cách an toàn.
Su-Mu-Kha (Sumukha), thủ lãnh đàn ngỗng, một mình ở lại với ngỗng
chúa.Ngỗng vàng quay lại ông ta và bảo: “Sumukha, tất cả những con
ngỗng kia đều đã bay cả rồi. Không do dự, chúng đã tách rời ta. Tại
sao ngươi còn chần chờ? Hãy bay nhanh đi khi ngươi còn có cơ hội.
Nếu ngươi ở lại đây, ngươi sẽ bị bắt.”
Su-Mu-Kha một cách nhẹ nhàng lướt trên mặt hồ đến bên cạnh ngỗng
chúa trả lời: “Hạ thần sẽ không bao giờ rời xa đức vua, khi sự gian
nguy đến gần kề. Dù sống hay chết hạ thần cũng sẽ ở bên cạnh hoàng
thượng.”
Vào lúc thủ lãnh đàn ngỗng và ngỗng chúa đang chuyện trò, người
trưởng đoàn thợ săn đến gần hồ nước. Su-Mu-Kha quyết định làm cho
người trưởng đoàn thợ săn cảm động nên đã bay tới van xin anh ta
đừng bắt ngỗng chúa. Người trưởng đoàn thợ săn kinh ngạc trước vẻ
đẹp vương giả của ngỗng vàng, và hỏi: “Này ngỗng chúa cao cả, các
bạn của nhà ngươi đã bay đi hết rồi. Nhà ngươi không thấy chiếc lưới
giăng ở đằng xa sao?”. “Khi cuộc sống sắp chấm dứt và sự chết đã gần
kề, thì không ích gì phải tranh đấu để chống lại phận số. Cho nên
tôi đã không trông thấy lưới bẫy của ông.”
Người thợ săn vô cùng cảm kích trước sự khôn ngoan của ngỗng vàng,
ông ta hỏi Su-Mu-Kha, tại sao một mình nhà ngươi ở lại đây? Những
con ngỗng khác đều đã bay đi hết. Bạn không bị mắc bẫy, nhưng tại
sao bạn ở lại bên cạnh con ngỗng cao quý kia? Vậy con ngỗng đó là ai
mà bạn đã không đành xa nó, trong giờ phút gian nguy? “Nó là chúa
đàn, đồng đội và bạn quý của tôi. Cho nên, dù hy sinh thân mạng, tôi
cũng sẽ không bao giờ bỏ rơi ngỗng chúa”.
Nghe như vậy, người thợ săn liền nghĩ rằng: “Chúng thật là
những con chim can đảm và cao thượng. Nếu ta làm hại chúng, các thần
linh sẽ trừng phạt ta, ta cần gì nghĩ đến sự ban thưởng của nhà vua.
Ta sẽ thả chúng ra.”
Người thợ săn nói với Su-Mu-Kha: “Nhận thấy nhà ngươi quyết lòng
hy sinh cho tình bạn, ta sẽ để cho ngỗng chúa của ngươi được tự do.
Vậy cả hai nhà ngươi muốn bay đi đâu tùy ý.”
Người thợ săn dịu dàng tháo chân con ngỗng vàng ra khỏi chiếc
bẫy, và rửa sạch máu ở chân nó nơi hồ nước trong. Ông ta chăm sóc
những bắp thịt, các đường gân bị thương và do phép mầu, chân của
ngỗng vàng trở nên lành hẳn. Không
có dấu vết gì chứng tỏ là ngỗng chúa bị bắt.
Su-Mu-Kha vui mừng thấy chúa của mình được trả tự do, bèn nói
với người thợ săn: “Này bạn, do hành động nhân đức của bạn đã thả
chúng tôi ra, tôi cầu nguyện cho bạn và thân quyến của bạn luôn sống
trong hạnh phúc, giàu sang.”
Rồi ngỗng vàng hỏi anh thợ săn: "Ông định bắt tôi cho ông hay do
bởi lịnh của người nào khác?”
“Thưa ngỗng chúa cao quý, do lịnh truyền của đức vua, tôi đã
đặt bẫy bắt ngài”. Anh thợ săn bèn kể cho ngỗng vàng nghe hết sự
thật về việc hoàng hậu Khê-Ma đã muốn nhìn thấy con chim kỳ lạ ra
sao.
Ngỗng vàng bèn suy nghĩ: “Có lẽ tốt nhất ta nên về kinh đô.
Người thợ săn sẽ được thưởng. Vua Ba-Hu-Pu-Tắc-Ca được biết là một
nhà vua sáng suốt và đạo đức. Nếu ta tự ý về nạp mình trước nhà vua,
ông ta sẽ thỏa mãn và đức vua có thể quyết định cho ta được tự do sử
dụng hồ nước đẹp đẽ này”. Ngỗng chúa bèn nói với anh thợ săn: “Hãy mang chúng tôi về cho
nhà vua. Tôi sẽ hầu chuyện với ông ta và nếu muốn, đức vua sẽ trả tự
do cho chúng tôi”.
“Thưa ngỗng chúa cao quý, các vị vua luôn luôn không có lòng
từ bi. Ðức vua có thể bắt nhốt quý vị như tù nhân.”
“Này anh bạn thợ săn, tôi đã làm cho ông cảm động, tôi có thể
gây thiện cảm được với đức vua. Cứ để mặc tôi. Nhiệm vụ của ông là
đưa tôi và Su-Mu-Kha về cho nhà vua”. Người thợ săn bèn đặt hai con ngỗng trên cây đòn và mang chúng
về cung điện.
Khi nhà vua và hoàng hậu nhìn thấy hai con chim đẹp đẽ, một con
với lông sắc vàng óng ánh và con kia màu trắng như tuyết trên đỉnh
núi, họ rất vui mừng. Ðức vua đặt cả hai con đậu trên cây sào bằng
vàng và chính tay nhà vua cho chúng ăn mật, ngũ cốc rang, và uống
nước ngọt.
Suốt đêm, đức vua và ngỗng vàng cùng nhau thảo luận về những
trách nhiệm và đạo đức trên cương vị của một nhà vua. Ngỗng vàng tâu
với đức vua: “Kẻ nào trì hoãn chậm trễ trong cố gắng làm việc lành,
sẽ bị đọa lạc thấp kém. Ai đánh mất tất cả sự hiểu biết và đức tính
cao thượng sẽ bị thất bại. Người không nhận biết chân lý sẽ không có
trí tuệ. Hãy chăm sóc các hoàng tử của bệ hạ, giúp chúng phát triển
sự khôn ngoan, và luôn luôn đi theo con đường đạo đức.”
Ngỗng vàng đã chỉ bảo và khuyến khích nhà vua làm như vậy. Vào
lúc bình minh hôm sau, ngỗng vàng cùng với Su-Mu-Kha thân
|